Phản ứng dưới mức tối ưu của Hoa Kỳ đối với COVID-19 Mặc dù Khả năng và Nguồn lực Mạnh mẽ

0
412

Phạm Quang Tuấn
Tại sao Mỹ, được xếp hàng đầu thế giới về khả năng phòng chống dịch, đã huấn luyện, cố vấn, giúp đỡ nhiều nước khác về phòng chống dịch, lại bị tơi tả hàng đầu thế giới trước cơn dịch? 

Theo bài này, trên tạp chí JAMA của Hiệp hội Y học Mỹ, là bởi vì “Sự lãnh đạo quốc gia mạnh mẽ và niềm tin của người dân vào chính phủ và lãnh đạo cũng quan trọng chẳng kém (có thể là quan trọng hơn) năng lực kỹ thuật” 

(The strength of a country’s leadership and the confidence of its people in their government and their leaders is just as important (if not more important) than technical capacities).

https://jamanetwork.com/journals/jama/fullarticle/2770891
Jennifer B. Nuzzo, Jessica A. Bell, Elizabeth E. Cameron.

Mỹ phản ứng dưới mức tối ưu với COVID-19 mặc dù có khả năng và nguồn lực mạnh mẽ.

Đại dịch COVID-19 có thể khiến các chính phủ ngạc nhiên, nhưng các cộng đồng y tế và sức khỏe cộng đồng từ lâu đã cảnh báo về khả năng xảy ra đại dịch trầm trọng. Gần đây nhất, vào tháng 9/2019, một báo cáo của ủy ban độc lập Giám sát Chuẩn bị Toàn cầu kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị thực hiện các bước ở quốc gia của họ để cải thiện sự chuẩn bị cho các sự kiện như vậy. Một tháng sau, Chỉ số An ninh Y tế Toàn cầu (GHS), đánh giá An ninh y tế ở 195 quốc gia, cho thấy không quốc gia nào chuẩn bị đầy đủ cho trường hợp khẩn cấp lớn về y tế. Chỉ số đã xác định những điểm yếu nghiêm trọng ở nhiều quốc gia có thể làm suy yếu khả năng ứng phó với đại dịch của họ, nhưng không lường trước được phản ứng kém đối với đại dịch bởi các quốc gia có điểm số cao như Mỹ, nơi có những lỗ hổng lớn trong lãnh đạo liên bang dẫn đến việc không huy động được năng lực đáng kể của đất nước.

Với số ca nhiễm COVID-19 lớn nhất cho đến nay và là một trong những tỷ lệ tử vong / nhiễm cao nhất trên thế giới, Hoa Kỳ đã phải gánh chịu hậu quả lớn hơn từ COVID-19 so với nhiều quốc gia khác. Hoa Kỳ chiếm chưa đến 5% dân số thế giới nhưng hơn 25% tổng số trường hợp COVID-19 được báo cáo trên toàn cầu và hiện đứng trong số 10 quốc gia hàng đầu về số ca tử vong liên quan đến COVID-19 trên đầu người.

Những kết quả này không phải là không thể tránh. Theo chỉ số GHS, Hoa Kỳ có vị trí tốt hơn hầu hết các quốc gia khác trong việc đáp ứng COVID-19. Chỉ số này bao gồm 140 câu hỏi đánh giá năng lực hoặc khả năng của quốc gia trong số 6 hạng mục: (1) ngăn ngừa sự xuất hiện, phát tán hoặc lây lan của mầm bệnh; (2) phát hiện sớm và báo cáo các dịch bệnh có thể xảy ra trên phạm vi quốc tế; (3) phản ứng nhanh chóng và giảm thiểu sự lây lan của dịch bệnh; (4) hệ thống y tế đủ mạnh và mạnh mẽ để điều trị bệnh nhân bị ảnh hưởng và bảo vệ nhân viên y tế; (5) các cam kết nâng cao năng lực quốc gia, các kế hoạch tài chính để giải quyết các lỗ hổng và tuân thủ các tiêu chuẩn toàn cầu; và (6) môi trường rủi ro tổng thể và tính dễ bị tổn thương của quốc gia trước các mối đe dọa sinh học. Chỉ số được chấm theo thang điểm từ 0 đến 100. Tuy nhiên, mặc dù chỉ số này hữu ích trong việc xác định các khoảng trống trong việc chuẩn bị cho đại dịch, hạng xếp và điểm số của chỉ số GHS không tương quan với tỷ lệ tử vong COVID-19.

Hoa Kỳ xếp thứ hạng cao hơn 194 quốc gia khác theo chỉ số GHS vì có nhiều năng lực hơn và ít rủi ro được xác định hơn các quốc gia khác. Hoa Kỳ có các phòng thí nghiệm chất lượng cao, các nhà dịch tễ học có huấn luyện và một kho dự trữ cùng với kế hoạch phân phối thiết bị bảo vệ cá nhân trong các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng. Mỹ cũng có một trung tâm hoạt động khẩn cấp và các kế hoạch loan báo rủi ro. Ngoài ra, còn có Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) nổi tiếng thế giới hoạt động trên toàn cầu nhằm nâng cao khả năng phát hiện và ứng phó với các mối đe dọa từ bệnh truyền nhiễm của các quốc gia khác.

Mỗi năng lực trong số này đều cần thiết để ứng phó với đại dịch và các quốc gia khác đã sử dụng chúng để ứng phó với chính họ. Ví dụ, Hàn Quốc, quốc gia đã trải qua đợt bùng phát hội chứng hô hấp Trung Đông lớn nhất bên ngoài Trung Đông do phát hiện chậm vi rút và lây lan bệnh viện, đã rút kinh nghiệm và xây dựng các chương trình giám sát và củng cố cơ sở hạ tầng chăm sóc sức khỏe. những năng lực này đã giúp Hàn Quốc xếp thứ 9 trong Chỉ số GHS.

Các quốc gia giàu có như Hàn Quốc không phải là những quốc gia duy nhất xếp hạng cao về Chỉ số và cũng có phản ứng hiệu quả với COVID-19. Thái Lan, quốc gia đầu tiên bên ngoài Trung Quốc báo cáo trường hợp COVID-19, đã tiến hành điều tra dịch tễ học để chứng minh khả năng lây truyền lâu dài từ người sang người của coronavirus 2 (SARS-CoV-2) và có Báo cáo ít hơn 20 trường hợp mỗi ngày kể từ giữa tháng 4. Xếp ở vị trí thứ 6 trong Bảng xếp hạng, Thái Lan giành được điểm cao nhất cho hệ thống vận chuyển bệnh phẩm và phòng xét nghiệm, kế hoạch truyền thông nguy cơ và hệ thống giám sát dịch bệnh tích hợp. Thái Lan cũng đứng thứ hai về khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và là 1 trong 5 quốc gia công khai cam kết ưu tiên tiếp cận nhân viên y tế mắc bệnh trong khi ứng phó với các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng.

Một số yếu tố có thể giúp giải thích lý do tại sao Hoa Kỳ đã phải vật lộn hơn nhiều quốc gia khác để ngăn chặn COVID-19 và chỉ số GHS có thể cung cấp một số thông tin chi tiết. Mặc dù xếp hạng tổng thể hàng đầu về chỉ số, Mỹ nhận được điểm thấp về một yếu tố chính có thể xác định mức độ một quốc gia có thể phản ứng với đại dịch: lòng tin của công chúng vào chính phủ. Mỹ là một trong số ít các quốc gia có thu nhập cao nhưng nhận được điểm thấp nhất về sự tin tưởng của công chúng vào chính phủ. Niềm tin tưởng kém vào chính phủ có thể làm suy yếu sự tuân thủ của công chúng đối với các biện pháp kiểm soát dịch bệnh, chẳng hạn như đeo khẩu trang hoặc khuyến cáo ở nhà và đã được báo cáo trong số những thách thức hiện có đối với phản ứng COVID-19 của Hoa Kỳ.

Ngoài ra, Hoa Kỳ nhận được điểm thấp về các chỉ số quan trọng liên quan đến sức mạnh của hệ thống y tế và khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe của người dân mà không có rào cản. Ví dụ, trong số 60 quốc gia có thu nhập cao trong Chỉ số GHS, Mỹ xếp thứ 38 về số bác sĩ trên đầu người và thứ 40 về số giường bệnh trên đầu người. Về khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, Hoa Kỳ được xếp hạng 175 trên toàn cầu do không có luật bắt buộc bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân và số lượng lớn các cá nhân không có bảo hiểm và không có bảo hiểm. Việc không được đảm bảo tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho mọi công dân khiến nhiều người dễ bị tổn thương trong thời gian khẩn cấp. Vào năm 2020, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua luật loại bỏ các rào cản về chi phí đối với xét nghiệm SARS-CoV-2, nhưng chi phí xét nghiệm vẫn còn và được coi là rào cản đối với việc mở rộng số lượng xét nghiệm được thực hiện ở Mỹ.

Fridley, MN March 10: Reece Wallaker, a medical assistant with M Health Fairview, administered a COVID-19 test to an actor and fellow Fairview employee, Nichole Brown, outside the M Health Fairview Fridley clinic Tuesday. (Photo by Aaron Lavinsky/Star Tribune via Getty Images)

Nhìn chung, Mỹ đã có khả năng ứng phó tốt với COVID-19, nhưng nước này thiếu sức mạnh trong các lĩnh vực then chốt. Mặc dù Hoa Kỳ đã thiết lập một kho dự trữ quốc gia về thuốc men, thiết bị bảo vệ cá nhân và máy thở, nhưng khi có dấu hiệu bùng phát mới, các lời kêu gọi của các quan chức liên bang về việc bổ sung và tăng cường những nguồn cung cấp này đã bị phớt lờ. Mỹ cũng không khai thác được chuyên môn kỹ thuật của riêng mình, chẳng hạn như chuyên môn kỹ thuật ở CDC. Mặc dù Hoa Kỳ có một mạng lưới y tế công cộng và phòng thí nghiệm lâm sàng đẳng cấp thế giới có khả năng phát triển các xét nghiệm của riêng họ để kiểm tra SARS-CoV-2, các hạn chế của liên bang ban đầu đã ngăn cản các phòng thí nghiệm này làm điều đó. Điều này đã hạn chế nghiêm trọng số lượng các cuộc thử nghiệm mà Hoa Kỳ có thể tiến hành (và có khả năng cho phép virus lây lan khắp đất nước mà không bị phát hiện) cho đến khi những hạn chế này cuối cùng được dỡ bỏ. Ngay cả bây giờ, việc thiếu chiến lược thử nghiệm quốc gia và tình trạng thiếu nguồn cung cấp thử nghiệm chưa được giải quyết vẫn tiếp tục hạn chế khả năng ngăn chặn SARS-CoV-2 của quốc gia này.

Điều khó hiểu nhất là Mỹ đã tham gia đáng kể vào việc giúp các nước khác tích lũy năng lực của mình để chuẩn bị cho các sự kiện như COVID-19. Trong chính quyền Obama, Hoa Kỳ đã khởi động Chương trình nghị sự An ninh Y tế Toàn cầu và đã đóng góp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để giúp các nước phát triển năng lực y tế công cộng để ngăn ngừa, phát hiện và ứng phó với các đợt bùng phát bệnh truyền nhiễm. Năng lực dịch tễ học của Thái Lan đã được phát triển với sự đóng góp lớn về kinh phí và chuyên môn từ Hoa Kỳ. Mặc dù Hoa Kỳ thiếu một chiến lược quốc gia về thử nghiệm và tiến hành giám sát đối với COVID-19, nhưng trước đây Hoa Kỳ đã giúp các nước khác phát triển các chiến lược như vậy đối với các bệnh khác.

Các chuyên gia quốc tế đồng ý rằng đại dịch COVID-19 như một trường hợp thử nghiệm về năng lực theo đánh giá của Chỉ số GHS vẫn rất phù hợp. Tuy nhiên, trong tương lai, Chỉ số nên bao gồm các thước đo mới hoặc mạnh hơn về một số năng lực khác, chẳng hạn như chuỗi cung ứng y tế và hiểu biết tốt hơn về lãnh đạo quốc gia. Sức mạnh của sự lãnh đạo của một quốc gia và niềm tin của người dân vào chính phủ và các nhà lãnh đạo của họ cũng quan trọng (nếu không muốn nói là quan trọng hơn) so với năng lực kỹ thuật. Các phiên bản trong tương lai của Chỉ số sẽ có trọng số lớn hơn đối với các yếu tố này.

Trong những năm tới, chắc chắn Mỹ sẽ trải qua các cuộc đánh giá cấp quốc gia để hiểu được năng lực mạnh mẽ của mình đã bị lãng phí như thế nào khi đất nước cần họ nhất. Trong khi đó, sức khỏe và an ninh kinh tế của đất nước sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng tiêu cực cho đến khi các nhà lãnh đạo quốc gia thay đổi quan điểm.