BÁC CẢ HÀ ĐÔNG

    0
    8
    Nà văn Vũ Thư Hiên và con gái Vũ Hoài Thu

    Vũ Thư Hiên cùng với Song Chi 

    Ngôi nhà số 65 phố Nhà Rượu là ngôi nhà thứ ba của chúng tôi. Nó lớn hơn ngôi nhà thứ hai số 27 Bis cùng phố, có nhiều phòng hơn vì gia đình đã lớn thêm với ba em tôi lần lượt ra đời. 

    Thay vào chị Nhài Hiên là chị Tường ở quê lên. Chị xấp xỉ tuổi cha mẹ tôi, gọi cha mẹ tôi bằng cậu mợ xưng em, còn chúng tôi gọi chị bằng chị. Cách xưng hô này được giữ mãi, vì sao thì khi tôi về quê ở với bà chị cả của cha tôi là cô Gái được cô dẫn tích tôi mới biết. Thì ra chị Tường là một đứa bé mới đẻ bị mẹ vứt ở bụi tre đầu ngõ, ông nội tôi dậy sớm nghe tiếng trẻ khóc, mới lần ra xem rồi thương tình bồng về. Chị lớn lên trong ngôi nhà gỗ của ông bà tôi, trở thành người nhà, nhưng không được coi như con nuôi. Thấp, đậm người, cục mịch, lúc nào cũng cau có, chị Tường khác hẳn chị Nhài Hiên dịu dàng.  

    Tôi biết bác Cả Hà Đông vào những năm ấy. 

    Một hôm cha tôi trở về, mặt đăm chiêu. Ông nói nhỏ với mẹ tôi: “Anh Sao Đỏ vượt ngục rồi!”

    – Anh ấy hiện ở đâu? – mẹ tôi lo lắng. 

    – Đang đợi xem sao. Tụi nó lùng dữ lắm. Treo giải thưởng một vạn đồng Đông Dương cho cái đầu Sao Đỏ. 

    – Đã có chỗ trốn cho anh ấy chưa?

    – Mình phải lo cho anh ấy thôi!

    Mẹ tôi nói không nên để Sao Đỏ ở nơi nào khác, mọi chỗ đều không an toàn, đều nguy hiểm, tốt nhất là đưa về nhà mình. Đó mới là chỗ mật thám ít ngờ nhất – Nguyễn Lương Bằng không thể mạo hiểm trốn ở nhà bạn tù vừa được tha. 

    Hôm sau cha tôi mang về tờ Tin Mới với dòng nhắn tin trong mục Rao vặt: “Ông Cả Hà Đông hiện ở đâu, về nhà ngay, cả nhà đang đợi ông”. 

    Trưa khuya hai hôm sau, một người đàn ông gày còm vận áo the thâm, quần cháo lòng, một tay cầm cái ô cụp, tay kia xách gói vải trong có một viên ngói tây, quanh quẩn trước cổng, nhìn vào chồng ngói ở trong rồi mới gõ cửa. Nhìn ông, người ta hẳn phải nghĩ ông đi mua ngói. Cha tôi hé cửa cho ông vào rồi khép lại. Hai người ôm chầm lấy nhau. 

    Căn phòng nhỏ của chị Tường trở thành phòng cho ông, lũ trẻ chúng tôi không được phép ra vào. Chúng tôi được bố mẹ dặn rằng người mới đến ở trong nhà là Bác Cả Hà Đông, cấm tiệt không được nói với ai về bác. Chị Tường ngoan đạo cũng đã quen với những ông khách như thế của cha mẹ tôi, không cần phải dặn. 

    Bí danh Ông Cả Hà Đông có từ ngày đó. Nếu nó có trước chắc cha tôi đã không dám dùng nó để viết trong mục Rao Vặt. 

    Mẹ tôi bận bịu suốt dưới bếp lo nấu nướng những món tẩm bổ cho bác Cả Hà Đông: chim câu tần hạt sen, chân giò hầm thuốc bắc… Chúng tôi chưa bao giờ được biết đến những thức ăn ấy. 

    Vào thời gian phải lo kinh tế cho Đảng, lo cho các đồng chí đang trốn tránh, bố mẹ tôi ít khi ở nhà. Mẹ tôi mặc chị Tường lo bữa ăn cho chúng tôi. Tôi nhớ rất lâu món rau muống sống chấm bỗng rượu, Rau muống thường được chẻ nhỏ, đàng này chị Tường chỉ vặn cọng rau làm đôi làm ba rồi đập vào lòng bàn tay cho dập. Bỗng rượu thì đi xin ở những lỗ thải của nhà máy – nó là đồ cho lợn, muốn lấy bao nhiêu thì lấy. 

    Trong những ngày ấy người đến gặp bác Cả Hà Đông chỉ có bác Ba Lâm. Chúng tôi rất yêu ông bao giờ này. Bác biết cách chơi với chúng tôi, cứ như bác cũng là một đứa trẻ con, y như chúng tôi. Chúng tôi thì rất khoái chá nhìn cách bác gọt khoai và hoa quả. Mọi người gọt xuôi thì bác gọt ngược – đưa lưỡi dao từ ngoài vào trong. Mẹ tôi cười:

    – Bác ấy ở bên Tây lâu, quen cách gọt của người Tây ấy mà. 

    Bác Ba Lâm cười khì:

    – Thì họ gọt thế, mình bắt chước rồi thành quen, chị ạ. Không hiểu sao Tây với ta lại gọt khác nhau thế nhỉ?

    Trong số những người bạn cha mẹ tôi từng ở nhà tôi thì bác Ba Lâm là người ở thường xuyên, lâu nhất. Bác là người chu đáo cả trong những chuyện nhỏ nhặt. Trong khi chính quyền thuộc địa tiến hành cuộc tổng khủng bố, mọi người cách mạng đều phải trốn thì bác Ba Lâm đột ngột trở về nhà ban đêm, chỉ để đưa tiền cho mẹ tôi trả cho thợ giặt. 

    Kể chuyện bác Ba Lâm, và các bác khác nữa, đến ở nhà tôi quần áo không giặt lấy mà đưa thợ giặt chắc nhiều người không tin, nhất là những người sống trong thời kỳ bao cấp, thiếu thốn đủ đường. Họ sẽ nói: “Bịa, làm gì có chuyện ấy”. Họ đọc trong các cuốn hồi ký cách mạng chỉ gặp những miêu tả nào gian khổ, nào tù đày, không đâu nói tới chi tiết này. Nhưng nó có thật. 

    Trong thời kỳ Mặt trận Bình dân cầm quyền ở Pháp, chính phủ của Mặt Trận này đã cử cả bà Andre Viollis sang thanh tra chế độ lao tù ở Đông Dương, làm ccho chính quyền thuộc địa buộc lòng phải nới lỏng cách cai trị. Đó là thời kỳ dễ thở nhất đối với những người chống đối. 

    Người ta cũng gò ép tiểu sử những nhà cách mạng phải dính tới một chút gì đó không công thì nông. Trong thực tế, những người hoạt động cách mạng không nhiều thì ít đều là người có học. Những chiến sĩ mù chữ chỉ là những người làm việc vặt.      

    Không kể bác Lang Thanh, bác Cả Hà Đông là người thân nhất với cha mẹ tôi. Trong bảo tàng nhà ngục Sơn La vẫn còn bức ảnh cha tôi và ông chụp chung. Thời Tây đô hộ, chế độ giam cầm xem ra cũng dễ dãi, tù được chụp ảnh chung làm kỷ niệm, nên giờ đây mới còn lại bức ảnh ấy. 

    Kể từ năm 1954 khi chính phủ kháng chiến về tiếp quản Hà Nội, tôn ti trật tự mới được thiết lập thì trong số bạn bè thời hoạt động bí mật chỉ có bác Cả Hà Đông là người năng lui tới nhà tôi. Mà không phải để bàn bạc công việc, bác đến chơi vậy thôi, thăm cha mẹ tôi, thăm các cháu. Những người thường xuyên tới nhà tôi trong thời kỳ hoạt động bí mật nay trở thành “lãnh tụ”, thành các quan chức lớn, thảy đều biến mất như bốc hơi. 

    Việc bạn bè đến thăm nhau bình thường hoá ra cũng bị công an theo dõi. Khi tôi ở trong tù, công an tra vấn tôi nhiều lần trong những cuộc hỏi cung, cứ như thể ông Cả Hà Đông cũng là một nghi can, trong khi ông đường đường là Chủ nhiệm Ban kiểm tra Trung ương Đảng. 

    Thời gian tôi học ở Moskva vào những năm 50, ông Nguyễn Lương Bằng là đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên Xô. Công việc bận bịu, thỉnh thoảng ông lại gọi tôi đến ăn cơm với ông, chắc vì muốn cho tôi được ăn cơm Việt Nam với ông trong không khí gia đình. 

    Một hôm đang ăn ông bảo tôi:

    – Bác nói điều này, cháu nhớ lấy nhá: “Đàn bà một người thì đoàn kết, hai người thì chia rẽ. Đừng có quên!

    Hình như hôm ấy ông đang buồn phiền sau một cuộc cãi vã giữa vợ ông, cũng là một nhân viên sứ quán, với mấy bà khác cùng cơ quan. Nhớ lại câu nói của ông, tôi cứ buồn cười mãi. Có những tình tiết không quan trọng chút nào nhưng chúng đọng lại rất lâu trong trí nhớ. 

    Tôi rất yêu bác Cả Hà Đông ngày ấy. 

    Nhưng tình cảm ấy không tồn tại trong tôi mãi mãi. 

    Tôi đã mất ông, ông bác tôi từng yêu quý. 

    Vào năm tù thứ ba hay thứ tư của mình, tôi không nhớ, tôi phải vất vả lắm mới viết được bức thư gửi cho ông. Trong những nhà tù tôi trải qua, người bị giam không có quyền được đọc, thậm chí một mảnh giấy báo bọc đồ tiếp tế cũng bị lột ra, đừng nói tới viết. Tôi phải lấy nhựa thuốc lào đọng trong cái điếu tự tạo làm mực, lấy cật bương làm bút để viết. 

    Tôi viết:

    “Thưa bác. Cháu đề nghị bác, với tư cách người cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sáng của Đảng, tự mình xem xét vụ án này. Cháu là đứa cháu được bác và bố mẹ giáo dục tinh thần trung thành với sự nghiệp cách mạng. Nếu sau khi kiểm tra bác thấy cháu phản cách mạng thật thì cứ mang ra bắn, nhưng nếu không phải là như thế thì bác phải đưa bọn lạm dụng chức quyền đàn áp những người cách mạng trung thực ra xử. “

    Không còn có thể tin gì nữa, không còn có thể  trông đợi gì được nữa ở cái đảng cộng sản nắm toàn quyền cai trị đất nước đã bỏ tôi vào tù, nhưng tôi tin vẫn còn đâu đó những người từng chịu đựng gian nan, tù ngục cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ không chịu cúi đầu làm tay sai cho những tên cơ hội tiếm quyền cai trị đất nước. 

    Tôi lầm. Như cách người ta thường nói: tôi ngu lâu. 

    Bức thư đã được bí mật chuyển ra ngoài nhân một lần tôi được gặp gia đình. Mẹ tôi đã tới gặp ông, người bạn thân thiết. Ông nhận thư của tôi, nhớn nhác nói lảng sang chuyện khác. Chừng ông sợ những con “rệp” được gài trong phòng khách. Mẹ tôi hiểu, ra về. Khi tiễn mẹ tôi ra cổng, ông nói nhỏ: “Tập thể quyết định, chị ơi, tôi không làm gì được”. 

    Tôi tiếc đã đặt niềm tin ở ông. Tôi tiếc đã mất công cặm cụi viết thư cho ông. 

    Khi Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La năm 1943, ông được một thanh niên người Thái trắng dẫn đường. Trở về nhà anh bị Pháp bắt đem chặt đầu. Tôi đã tới bản Giảng, cách nhà tù Sơn La vài cây số, vào mùa thu năm 1965, để thăm gia đình anh thanh niên nọ. Trong ngôi nhà sàn xiêu vẹo chỉ còn lại mẹ anh, một bà lão lẩm cẩm, điếc lác, hỏi năm câu mới trả lời được một, câu trả lời lại chẳng ăn nhập gì với câu hỏi. 

    Sau hai mươi hai năm, tính đến chuyến đi của tôi, người tù vượt ngục dẫn tới cái chết của người thanh niên nọ là ông Nguyễn lương Bằng đã không một lần trở lại bản Giảng để thăm hỏi bà lão tội nghiệp. 

    Người đem cả sinh mạng mình giúp ông mà ông còn quên, nói chi đến đồng chí.

    Lẽ ra, ngay từ đó tôi đã phải biết Nguyễn Lương Bằng là con người thế nào. Giờ đây, khi cả hai bố con người bạn thân của mình bị giam, mà ông biết là không có tội, ông cũng không hề động ngón tay út để can thiệp.  

    Khi bố tôi được thả và sau thời gian bị biệt xứ ở Nam Định được trở về Hà Nội, ông Nguyễn Lương Bằng có đến thăm, có nói xin lỗi cha tôi. 

    Cha tôi nói: “Chuyện qua rồi, tôi không để tâm. Anh cũng không phải kẻ gây ra tội”.

    Tôi không có được đức độ lượng của cha tôi. 

    Năm 1979, Nguyễn Lương bằng qua đời, cha tôi gọi tôi:

    – Hôm nay đưa tang bác Cả. Con mặc quần áo rồi chở bố đi tiễn bác.

    Sau 6 năm tù, cha tôi yếu đi nhiều. Khi ông muốn đi đâu tôi phải chở ông đi bằng xe gắn máy.   

    Tôi thưa:

    – Con là đứa con luôn vâng lời bố. Nhưng lần này thì con xin bố tha cho con tội không nghe. Con có thể bỏ cả ngày để tiễn đưa một anh hùng, nhưng con sẽ không bỏ một phút để đưa ma một thằng hèn và bất nhân. Dù có lúc nó đã là người tốt.

    Cha tôi im lặng. 

    Rồi thở dài.