Nguyễn Ngọc Chu
Từ ngàn xưa các triều đại Trung Quốc đã nợ Việt Nam. Chính thể Trung Quốc hiện nay càng nợ Việt Nam. Và các chính thể Trung Quốc sau này còn mãi nợ Việt Nam. Mối nợ ngàn năm vĩnh viễn.
Đã hơn 39 năm kể từ khi Việt Nam thống nhất (30-4-1975) và hơn 35 năm kể từ ngày Trung Quốc mang 60 vạn quân tấn công Việt Nam (17-2-1979), vậy mà có người vẫn cứ nhắc đến ơn huệ với Trung Quốc. Đó là một sự nhầm lẫn vô cùng tai hại.
Trước hết là bởi vì Việt Nam không nợ Trung Quốc, mà ngược lại Trung Quốc nợ Việt Nam. Thứ đến Trung Quốc sẽ lợi dụng điều đó để tuyên truyền xuyên tạc nói xấu Việt Nam.
Một lần và vĩnh viễn, cần chỉ rõ những món nợ chưa trả và không thể trả được của Trung Quốc đối với Việt Nam từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, để không bao giờ phải nói đến ơn huệ giữa hai nước nữa. Sau đây là 10 món nợ không thể trả được của Trung quốc đối với Việt Nam.
1. Việt Nam đã kháng chiến chống Pháp và Mỹ, và đã hy sinh xương máu hàng triệu người không chỉ vì Việt Nam, mà còn để bảo vệ Trung Quốc trước sự đe dọa trực diện của “Thế giới tự do” đối với sự tồn vong của chế độ Mao Trạch Đông ở Trung Quốc. Một khi Việt Nam là đồng minh của Pháp Mỹ, “Thế giới tự do” sẽ nằm sát nách Trung Quốc, và chế độ Mao Trạch Đông sẽ bị bao vây uy hiếp trực tiếp về mọi phương diện, kể cả về mặt đặt căn cứ quân sự để tấn công Trung Quốc. Bởi vậy, không cần Việt Nam phải đề nghị, thì Mao Trạch Đông cũng buộc phải giúp Việt Nam để chống Pháp và Mỹ. Việc Trung Quốc viện trợ vũ khí lương thực cho Việt Nam đánh Pháp Mỹ là vì lợi ích bảo vệ Trung Quốc. Giá trị vũ khí lương thực vài chục hay vài trăm tỷ Nhân dân tệ không thể sánh được với xương máu của hàng triệu người Việt Nam. Vậy AI NỢ AI?
2. Mỹ là kẻ thù số 1 của Trung Quốc. Trung Quốc có tham vọng bá quyền thế giới. Việt Nam đã làm cho kẻ thù số 1 của Trung Quốc bị sa lầy và suy yếu. Hơn thế nữa, Việt Nam đã “cầm chân” Mỹ để Trung Quốc có cơ hội phát triển lớn mạnh. Bởi vậy, không cần Việt Nam đề nghị, Trung Quốc cũng chủ tâm xung phong viện trợ cho Việt Nam để làm Mỹ suy yếu càng lâu càng tốt. Vậy AI NỢ AI?
3. Việt Nam đã giúp cho Trung Quốc có được vị thế một trong hai nước lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới khi để Trung Quốc dương ngọn cờ giúp Việt Nam đánh Mỹ. Hơn thế nữa, Việt Nam đã nhiều lần trực tiếp bảo vệ Trung Quốc trên trường quốc tế, giúp cho Trung Quốc có uy tín để tranh dành vai trò lãnh đạo và cạnh tranh trực tiếp với Liên Xô. Chỉ vài chục tỷ Nhân dân tệ viện trợ cho Việt Nam đánh Mỹ, và với sự bảo vệ của Việt Nam, mà chỉ trong vòng mấy năm, dẫu còn rất lạc hậu nhưng Trung Quốc đã ngoi lên trở thành một một cường quốc lãnh đạo một phần thế giới. Vậy AI NỢ AI?
4. Không chỉ bảo vệ thể chế trước sự tấn công của “Thế giới tự do”, không chỉ làm cho mục tiêu bá chủ thế giới trở thành hiện thực, Mao Trạch Đông và giới lãnh đạo Trung Quốc chủ mưu thôn tính thống trị Việt Nam. Bởi vậy Trung Quốc làm cho Việt Nam phải chia cắt lâu dài không thể lớn mạnh. Chính vì thế CHND Trung Hoa đã ép Việt Nam DCCH phải lùi từ vĩ tuyến 13 đến vĩ tuyến 17 trong Hiệp ước Genève 1954. Trong chiến tranh chống Mỹ, Trung Quốc ép Việt Nam không được nhận viện trợ của Liên Xô, không cho Việt Nam đánh lớn, không cho đàm phán với Mỹ, muốn Việt Nam làm bia đỡ đạn cho một cuộc chiến không có hồi kết để dễ bề thống trị khuất phục. Viện trợ vì những mục đích và mưu mô thâm hiểm vô cùng. Vậy AI NỢ AI?
5. Không chỉ viện trợ để cho Việt Nam lâm vào một cuộc chiến tranh dai dẳng nhưng không thể chiến thắng, thâm độc hơn Mao Trạch Đông còn chủ trương đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng nhằm hủy diệt dân tộc Việt Nam. Mao Trạch Đông đã nhiều lần gửi thông điệp cho Hoa Kỳ có thể làm bất cứ điều gì miễn là không động đến Trung Quốc. Thủ đoạn diệt chủng tàn nhẫn quen thuộc của các bạo chúa Trung Hoa được Mao Trạch Đông đưa lên một mức độ thảm sát mới, không thành công ở Việt Nam, nhưng đã đưa đến họa diệt chủng cho nhân dân Campuchia. Tàn bạo đến thế là cùng. Tội lỗi đến thế là cùng. Vậy AI NỢ AI?
6. Ký Hiệp ước Genève 1954 tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam chưa ráo mực, năm 1956 CHND Trung Hoa đánh chiếm các đảo Đông Hoàng Sa, Đài Loan chiếm Ba Bình. Nhân lúc Việt Nam còn bận chiến tranh, Trung Quốc dời các cột mốc biên giới vào sâu lãnh địa Việt Nam. Trắng trợn hơn Trung quốc điều hơn 2000 công nhân và lính đổ đập bê tông ngang nhánh sông Thác Bản Giốc, đòi chiếm đảo Pò Thoong, dời cột mốc biên giới số 53 từ bên kia sông vào quá nửa lòng sông. Ải Nam Quan, một nửa Thác Bản Giốc và nhiều vùng lãnh thổ nữa của Việt Nam đã thuộc về Trung Quốc. Dành giúp Việt Nam xây đập sông biên giới, Trung Quốc chỉ mở cống nước phia bờ Việt Nam cho dòng chảy xói về bờ Việt Nam. Khi phân định theo luật trung tuyến dòng chảy, Trung Quốc dành phần hơn trên đất liền và nhất là trên biển. Trung Quốc cho dân xâm cư các vùng đất vắng và trên đảo để biến thành làng bản của Trung Quốc. Chưa đủ, năm 1974 nhân Việt Nam bị chia cắt thành hai miền đối địch, Trung Quốc mang quân chiếm nốt các đảo Tây Hoàng Sa.
Năm 1984 Trung Quốc chiếm Núi Đất ở Hà Giang.Năm 1988 Trung Quốc chiếm các đảo Gạc Ma Tư Nghĩa Su Bi Chữ Thập Châu Viên Ga Ven thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Trong suốt 65 năm tồn tại nước CHND Trung Hoa, Trung Quốc đã chiếm hàng ngàn km vuông đất và biển đảo của Việt Nam. Vậy AI NỢ AI?
7. Với âm mưu thâm độc làm cho Việt Nam suy yếu, Trung Quốc xúi dục và hậu thuẫn cho cho chính quyền Pôl Pốt mang quân chiếm đất và tàn sát nhân dân Việt Nam ở các tỉnh biên giới Tây Nam Việt Nam trong suốt các năm 1977-1979. Không thể chịu đựng được sự tàn bạo của quân diệt chủng Pôl Pốt, Việt Nam buộc phải điều quân phản công, lún sâu vào cuộc chiến thêm 10 năm nữa, trong khi đáng ra phải được hưởng hòa bình và tự do để xây dựng đất nước. Vậy AI NỢ AI?
8. Không thống trị và thần phục được Việt Nam, ngày 17-2-1979 Trung Quốc mang 60 vạn quân tấn công toàn bộ tuyến biên giới với Việt Nam. Quân Trung Quốc đã tàn phá làng mạc thành phố, giết hại hàng vạn dân thường Việt Nam. Trung Quốc tiến hành chiến tranh xâm chiếm Việt Nam nhưng lại lừa đảo nhân dân Trung quốc rằng Việt Nam tấn công Trung Quốc trước và Trung Quốc chỉ phản kích tự vệ. Thất bại phải rút về nước và dối trá đã làm cho lãnh đạo Trung Quốc sợ hãi bộc lộ sự thật trước nhân dân Trung Quốc, nên phải thỏa thuận với Việt Nam không bao giờ nhắc đến cuộc chiến tranh tháng 2- 1979. Tội ác chiến tranh chống Việt Nam. Tội ác giết chết con em nhân dân Trung Quốc. Tội lừa gạt nhân dân Trung quốc. Vậy AI NỢ AI?
9. Buộc phải rút về nước, liên tục trong 10 năm tiếp theo 1980-1989 Trung Quốc đưa quân đánh chiếm các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, chiếm đất và bắn phá làng mạc thị trấn Việt Nam, gây nhiều thương vong cho dân thường. Các mặt trận Lạng Sơn Hà Giang vô cùng khốc liệt làm hy sinh hàng ngàn thanh niên trai tráng Việt Nam và hàng ngàn nhân mạng binh sỹ Trung Quốc. Suốt 10 năm ròng biên giới phía Bắc Việt Nam có chiến tranh với Trung Quốc, Việt Nam không có cơ hội để tập trung phát triển đất nước. Vậy AI NỢ AI?
10. Trong suốt 25 năm bình thường hóa quan hệ từ Hội Nghị Thành Đô ( 4-9-1990 ), Trung Quốc đã bán được bao nhiêu máy móc thiết bị hàng hóa sang Việt Nam? Trung Quốc đã thắng thầu bao nhiêu công trình quan trọng? Trung Quốc đã mua được những tài nguyên khoáng sản giá rẻ nào của Việt Nam? Lợi nhuận kinh tế mà Trung Quốc thu được từ Việt Nam trong suốt 25 năm qua đã đủ cân bằng với những gì mà Trung Quốc đã bỏ ra trước đó? Vì hàng nhái kém chất lượng rẻ tiền của Trung Quốc mà Việt Nam không phát triển được nền kinh tế tự chủ, vì hàng hóa độc hại của Trung Quốc mà người dân Việt Nam sẽ phải gánh chịu những hậu quả không lường được về sau này. Tông thể tất cả lại: AI NỢ AI?
Thiết nghĩ chỉ với 10 điểm nêu trên đã thừa đủ kết luận là Trung Quốc mang ơn Việt Nam, không thể trả được. Vài chục hay vài trăm tỷ Nhân dân tệ viện trợ trong chiến tranh của Trung Quốc đã trở thành nhỏ nhoi vô nghĩa.
Lịch sử thì không có chữ nếu. Nhưng cứ đặt câu hỏi rằng: Nếu Mao Trạch Đông không giúp Việt Nam thì sẽ ra sao? Câu trả lời đã có trong lòng mỗi bạn đọc.
Điều phải lưu ý là nhân dân Việt Nam, nhân dân Trung Quốc cũng như bất cứ dân tộc nào khác trên quả địa cầu đều tràn đầy tình tương thân tương ái. Hãy tách nhân dân ra khỏi chính thể trong đánh giá cho – nợ thắng – thua, để không làm tổn thương đến tình người.
Đặt lên bàn cân của lợi ích, của lương tâm, của công lý, của tiến bộ nhân loại, của bất cứ tiêu chí nào, ở bất cứ phương diện nào, nước CHND Trung Hoa nợ Dân tộc Việt Nam những món nợ không bao giờ trả được.
Và không chỉ là nợ. Bỏ tiền bạc không đơn thuần để mua lợi ích, bỏ tiền bạc với dã tâm làm cho nước người lụn bại, làm cho nhân dân người tan xương, làm cho dân tộc người phải hủy diệt, thì đó là tội ác mà đến quỷ thần cũng căm phẫn, đó là tội ác mà trời không dung đất không tha.
Từ đây hãy đào sâu chôn chặt, từ đây đừng bao giờ nhắc đến ơn huệ với chính thể Mao Trạch Đông và những kẻ nối dõi. Chính họ là tội đồ đưa đến đau thương mất mát cho Dân tộc Việt Nam. Không chỉ thế họ là tội đồ đưa đến đau thương cho chính nhân dân Trung Quốc.
Từ ngàn xưa các triều đại Trung Quốc đã nợ Việt Nam. Chính thể Trung Quốc hiện nay càng nợ Việt Nam. Và các chính thể Trung Quốc sau này còn mãi nợ Việt Nam. Mối nợ ngàn năm vĩnh viễn.
Nguyễn Ngọc Chu