TRẦN ĐỘ, NGƯỜI YÊU SỰ THẬT

0
681

(Nhân sự kiện Vũ Mão qua đời và lời trần tình muộn màng về bài điếu văn đáng xấu hổ trong tang lễ Trần Độ)

1

Tôi ra tù cuối năm 1976.
Gia đình tôi đã rơi xuống đáy vực nghèo khổ khi vắng người đàn ông trụ cột. Tôi không để ý đến mọi thứ khác ngoài đủ thứ công việc có được để kiếm sống.
Phải hai năm sau, cuối năm 1976, tôi mới gặp lại Trần Độ.
Nghe nói với tư cách phó chính uỷ kiêm phó bí thư quân uỷ Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam, Trần Độ hồi ấy rất bận với công việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, viết quân sử vv…
Biết vậy, tôi lại càng không có ý tìm anh. Tôi không muốn gặp các quan chức. Tâm lý này là chung cho tất cả chúng tôi, những người không dưng bị mấy tên “lãnh tụ” khốn nạn tống vào tù.
Nhưng rồi Trần Độ thân tìm tôi. Trong bữa rượu hàn huyên đạm bạc chỉ có ba người, ngoài hai chúng tôi còn có một chị cán bộ trẻ, phụ tá của anh.
Trần Độ biết tôi ở tù.
Anh nhìn tôi thương hại:
– Chín năm! Chắc chú làm gì sai thì Đảng mới bắt chú và xử nặng thế chứ.
Tôi sững người.
Vậy ra anh chẳng biết gì về cái gọi là vụ án “nhóm xét lại chống đảng” mà tôi bị đính vào. Tôi dùng chữ “đính vào” như cách người ta nói về một cái khuy áo, mà tôi lại là cái khuy dưới cùng, có cũng được, mất cũng không sao. Mà có cái nhóm nào đâu cơ chứ! Chỉ có những cuộc luận bàn thế sự lúc trà dư tửu hậu của mấy cán bộ hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc từ khi còn trứng nước với lớp trẻ tới sau. Ấy thế mà mấy tên “lãnh tụ” quen thói nhìn đâu cũng thấy phản động phát hoảng, vội tổ chức một cuộc bắt bớ đại quy mô, khoe rằng chúng vừa quăng một mẻ lưới, bắt được một lũ phản động . Để tạo ra một chính danh cho hành động của mình, anh Ba, anh Sáu, anh Năm và bộ hạ liền nghĩ ra cho nó một cái tên thật kêu là “Nhóm tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”.
Bắt cán bộ đảng chưa đủ, người ta tóm cả những người ngoài đảng cho luôn vào cái rọ đó.
Thế là tôi vào tù, Vũ Huy Cương vào tù, cả Bùi Ngọc Tấn cũng vào tù nốt. Cả ba chúng tôi không ai là đảng viên của cái đảng nọ.

Trần độ- danlambao

2

Tôi coi Trần Độ như người anh mà tôi kính trọng vì nhân cách, vì xử thế, chứ không vì địa vị, tôi không muốn nói ngay lời phản bác.
Đáp lại, tôi chỉ nhìn anh, cười buồn:
– Em có nói gì bây giờ anh cũng sẽ nghĩ là em thanh minh. Tốt hơn hết, ta cạn với nhau chén rượu tái ngộ này, kèm theo một giao ước: “Anh sẽ xem xét sự việc bằng con mắt của mình, suy xét bằng cái đầu của mình, để rồi anh sẽ có kết luận”. Em chờ câu trả lời của anh trong một bữa rượu sau. Thế nhé?
Anh gật đầu. Chúng tôi cạn chén.
Trần Độ hơn tôi đúng 10 tuổi. Với anh, tôi không dám lắm lời.
Gần một năm sau mới có bữa rượu thứ hai.
– Em lắng nghe câu trả lời của anh đây – tôi nói.
Anh lắc đầu, thở dài:
– Một lũ chó má! Không thể ngờ.
Và văng một câu chửi tục, lần đầu tiên tôi nghe thấy từ miệng anh.
Trần Độ sau đó vẫn còn nhận nhiều chức vụ mới – Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ của Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, rồi Phó Chủ tịch Quốc Hội. Đã tưởng anh biết cái đảng của anh nó thế nào, hoá ra anh vẫn không từ chối bổng lộc nó ban cho. Tôi từng nghĩ như thế sau cuộc gặp gỡ ấy. Tôi chán sự đời ô trọc.
Rồi đến tai tôi những tiếng xì xào về chuyện sự thăng quan tiến chức nọ không phải như tôi nghĩ.
Trước hết, anh bị đưa ra khỏi quân đội để làm công tác dân sự không phải vì cái gì khác, mà qua những lời nói của anh với người này người kia, ở chỗ này chỗ khác, bị nghe lén, bị ghi lại trong những báo cáo. Lê Duẩn đọc những báo cáo ấy tỏ ra rất khó chịu – anh Quang Minh là người giúp việc Lê Duẩn cho tôi biết.Những báo cáo tiếp theo củng cố cho những báo cáo trước.
Quả vậy, sau tôi mới biết, trong những cương vị mới Trần Độ đã làm nhiều việc đi chệch đường lối của Đảng – xúi giục tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tháo gỡ việc ngăn sông cấm chợ, toa rập với Nguyên Ngọc đưa ra bản “Đề dẫn” về văn nghệ sặc mùi chống Đảng vv…
Tôi lại gặp anh. Và anh lại gặp tôi. Chúng tôi tìm nhau nhiều hơn. Chúng tôi cùng đi một đường.
Văn Cao là người chăm chú theo dõi thời cuộc, nói với tôi: “Trần Độ ngay thẳng quá, hỏng! Cao Biền dậy non rồi. Phí thật”!
Tôi đồng ý với Văn Cao. Cho đến lúc ấy vẫn được chúng tôi gọi đùa anh là “ông tiên chỉ” trong làng văn nghệ. Chúng tôi đánh giá cao những nhận định của anh.
Trần Độ được phong trung tướng cùng lúc với Lê Đức Anh, nhân vật sau này làm mưa làm gió trong chính trựờng. Nếu biết xuôi dòng anh có thể sẽ lên cao hơn nữa trong hệ thống quyền lực, hơn đứt Lê Đức Anh.
Là nói chuyện đằng thằng, không tính đến ô dù.
Trần Độ là người quá ngay thẳng. Anh là nạn nhân của sự thật. Anh nghĩ gì nói nấy, không giữ gìn. Anh không biết lui tới, biết náu mình chờ thời. Anh hành xử theo lương tâm, cứng đầu trong cuộc đấu tranh cho chân lý. Về mặt này anh giống Hoàng Minh Chính. Cả hai đều có tố chất người lính can trường. Nhưng cả hai đều không phải người làm chính trị.
Không ai có thể can ngăn Trần Độ. Những phát biểu của anh lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ tiếp tục làm chối tai các “lãnh tụ”.
Mà có phải anh chỉ phê bình sơ sơ những khuyết điểm cục bộ đâu. Từ chỗ nhỏ nhẹ, anh dần nói trắng ra ý muốn thay thế thể chế hiện tại bằng chế độ dân chủ, có tam quyền phân lập…
Với người khác đã là chuyện không bình thường. Nhưng anh là người cộng sản từ khi chính quyền còn trứng nước, hiện giữ chức vụ cao. Những phát biểu như thế có ảnh hưởng lớn trong quần chúng đảng viên, chưa nói gì tới quần chúng ngoài đảng.
Bảo Hùng, bạn tôi trong Bộ Nội vụ, người thạo tin, biết những tin mật và tin tối mật, thân tình khuyên tôi chớ dây với Trần Độ – hồ sơ Trần Độ đã được lập, mỗi ngày một dày thêm. Anh bị theo dõi anh từng bước.
Những bài viết của Trần Độ không được đăng báo, nhưng được chuyền tay rộng rãi. Chúng làm cho triều đình điên ruột.
Anh nhanh chóng trở thành một “tên phản động”.
Thời thế đã khác – người ta không thể bỏ tù anh tức khắc. Người ta chỉ có thể dùng đủ mọi cách hạ uy tín của anh.
Còn nhớ năm 1997 tôi đang ở thành phố Strassbourg cùng với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Một hôm, Trần Độ gửi cho tôi bài viết mới của anh, bảo tôi xem lại trước khi anh công bố. Tôi đưa anh Thiện cùng đọc. Thiện đọc xong, nói anh không hài lòng một số câu chữ trong đó. Lúc nói chuyện điện thoại với Trần Độ, tôi bảo Thiện cứ nói thẳng ý kiến của mình cho Trần Độ nghe. Thiện bỗ bã: “Không hiểu sao đến nay anh vẫn còn có thể dùng những từ “giải phóng”, “Mỹ-Nguỵ” trong bài viết, nó không đúng, không chỉnh, người đọc hiểu biết sẽ rất khó chịu đấy”. Trần Độ cười hề hề: “Mình lỡ viết theo thói quen, cậu sửa lại hộ mình nhá”.
Tôi ngạc nhiên khi đọc ở đâu đó có người viết Trần Độ quan cách, hách dịch. Tôi không hề thấy tính cách ấy ở anh. Rất có thể người nào đó bị anh khinh, không thèm trò chuyện, đã nghĩ thế. Là người trực tính, Trần Độ không biết giấu đi thái độ của anh trong giao thiệp, và chỉ có thế.
Một thí dụ. Năm 2001, trong một cuộc trò chuyện điện thoại với Trần Độ khi tôi đang ở Frankfurt am Main (CHLB Đức), có mặt một chú em rất hâm mộ bác Độ. Chú này có mặt trong cuộc điện đàm của tôi với Trần Độ, nằng nặc đòi tôi cho chú nói với bác Độ vài câu: “Bác ơi, cái đảng của bác kỳ quá, ai lại chống tham nhũng mà lại chống từ cấp cơ sở? Quét nhà thì người ta phải quét từ tầng trên xuống tầng dưới chứ! Ai lại đi làm chuyện ngược đời – quét từ dưới lên trên?”. Anh Độ cười to: ”Hay, chú nói hay lắm. Chỉ sai một chút thôi: cái đảng ấy không phải của tôi. Nó là của lũ vừa ngu vừa rồ. Này, chú tên gì nhỉ?”, “Dạ, cháu tên Cóc, Nguyễn Văn Cóc. Dễ nhớ lắm, bác ạ. Ở Đức này chỉ có mình cháu có cái tên xấu xí ấy thôi”. Anh Độ lại càng cười: “Xấu gì mà xấu, cậu ông Giời nói đúng lắm, cái đảng ấy toàn làm chuyện lộn ngược thôi!”.
Việc Trần Độ bị khai trừ Đảng năm 1999 ai cũng đã biết. Đảng cộng sản vốn không thích vạch áo cho người xem lưng cũng đã kiên nhẫn với Trần Độ lắm rồi, nhịn Trần Độ nhiều lắm rồi. Lẽ ra không bắt anh thì người ta cũng phải khai trừ anh từ lâu.
Anh cười, anh nói anh bị đảng của anh khai trừ là may. Như thế, anh được thừa nhận không phải là người nằm trong “vũng bùn hôi thối mà cái đảng ấy đang đằm mình trong đó một cách rất sáng tạo”.
Khai trừ anh đảng cộng sản thêm một lần không thẻm giấu giếm cái hẹp hòi truyền thống của nó – không bao giờ chịu nghe lời nói ngược. Hành hạ anh cho tới khi chết, cấm người đi đưa tang không được dùng chữ “Vô cùng thương tiếc”, đảng cộng sản lại càng cho thiên hạ thấy nó tiểu nhân tới mức nào trong sự hằn thù.
Đảng của anh khai trừ anh. Bù lại anh được nhân dân đón vào lòng.
Nhà cầm quyền căm ghét anh. Bù lại anh được tình yêu thương của những người yêu nước, của đồng bào.
Anh được rất nhiều, mà không mất gì. Nói cách khác, cái người ta quen cho là mất chẳng là cái quái gì đối với anh.
Khi lâm bệnh, anh không dùng một viên thuốc nào của nhà nước cấp – anh không tin thứ thuốc từ những người mà anh biết là không tử tế. Anh chỉ dùng thuốc đồng bào gửi cho anh. Có hai người rất sốt sắng lo cho anh có thuốc đủ dùng là Tưởng Năng Tiến và Đinh Quang Anh Thái. Khi anh qua đời, những bọc thuốc cuối cùng vẫn còn ở trên đường. Trần Độ không bao giờ quên nhắn tôi gửi lời cảm ơn hai người bạn thiết anh không biết mặt.
Được tin anh mất, tôi không khóc. Nước mắt chảy vào tim.
Tôi cảm được rằng mất mát này lớn hơn rất nhiều cái mất mát cho riêng tôi, đứa em yêu mến và kính trọng anh. Mất mát này là của cả dân tộc đang nhọc nhằn đi tìm quyền sống, quyền làm người.
Trong bức thư cuối cùng Trần Độ gửi cho tôi trước khi mất, anh dặn: “Giai đoạn chuẩn bị cho sự chuyển đổi chế độ có thể kéo dài. Việc hàng ngày của ta, không được quên, là nâng cao dân trí. Dân trí càng được nâng cao bao nhiêu thì sự chuyển đổi sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu. Thời cơ đến, việc mới thành. Chuẩn bị tốt thì thành tốt”.
Thời cơ mà ta chờ đợi sẽ đến, bao giờ cũng bất ngờ, lịch sử vốn thích thế mà, nhưng thời cơ ấy sẽ đến, tất yếu đến, bởi nó là quy luật của muôn đời.
Như nó đã từng xảy ra cùng với sự kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai đã bất ngờ mang lại nền độc lập cho các nước thuộc địa.
Như nó đã đến với sự sụp đổ như thể bất ngờ của cường quốc Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Nó sẽ đến, như Trần Độ mong ước.
Như chúng ta cùng mong ước với anh.
Ở thế giới bên kia, khi nó đến, hẳn anh sẽ mỉm cười sung sướng.

Paris, 2002

Vũ Thư Hiên