Chủ nghĩa đà điểu của giới “tinh hoa” VN.

0
623

Công hàm ngày 14 tháng chín năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã trở thành một điều “cấm kỵ” không chỉ trong giới bình dân ở VN mà còn ở giới học giả nghiên cứu, giới làm báo, hoạt động chính trị… Trong khi hệ quả của công hàm này, trên thực tế, đã khiến cho VN bị cô lập trên trường quốc tế, trước một đối thủ vừa mạnh bạo, vừa ngang ngược là TQ.

Chỉ mới tuần trước, TQ đã cho diễn tập quân sự trên một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của VN. TQ cũng loan báo vùng biển diễn tập là một khu vực có diện tích khoảng 11.000km². Đặc biệt khu vực biển này một phần thuộc vùng Kinh tế độc quyền (EEZ) của VN (tính từ bờ biển Đà Nẵng) và một phần thuộc (EEZ) của Hoàng Sa. Trên quan điểm quốc tế công pháp, những hành vi diễn tập quân sự là hành vi “khẳng định chủ quyền”. Một quốc gia không có quyền diễn tập quân sự trên một vùng biển “đang trong vòng tranh chấp” hay vùng biển thuộc quyền tài phán của quốc gia khác.

Khu vực kế cận, tháng năm năm 2014 TQ đã đưa giàn khoan HD 981 vào cách đảo Tri Tôn (thuộc Hoàng Sa) khoảng 20 hải lý để hoạt động thăm dò. Đây cũng là một hành vi pháp lý nhằm “khẳng định chủ quyền” (ở đảo Tri Tôn). Bởi vì quốc gia chỉ có thể hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên nếu và chỉ nếu vùng thềm lục địa đang thăm dò (hay khai thác) thuộc chủ quyền (hay quyền chủ quyền) của quốc gia này.

Cũng mới tháng trước, TQ đã lên tiếng đe dọa sử dụng vũ lực nếu VN không rút giàn khoan Repsol đang khai thác tại lô 136-03. Đây là một hành vi “khẳng định quyền chủ quyền” (vùng biển và thềm lục địa phát sinh từ các đảo Trường Sa).

Rốt cục VN phải rút giàn khoan ở lô 136-03. Điều này cho thấy VN đã nhìn nhận lô 136-03 thuộc về “khu vực có tranh chấp”.

Nếu ta có theo dõi thường xuyên những hành vi của TQ tại Biển Đông, ta có thể kể ra vài chục trường hợp TQ khẳng định chủ quyền (hay quyền chủ quyền) tương tự như vậy.

VN không có cách nào để đối phó. Trong khi những hành vi của TQ đều không bị quốc tế lên án. Không phải vì “quốc tế” thiên vị TQ mà vì những hành vi của TQ đều tuân thủ luật lệ quốc tế.

Thật vậy, nhớ lại vụ giàn khoan HD 981. Đối phó lại những tố cáo của VN về vụ xâm phạm “quyền và lợi ích của VN” gây ra do giàn khoan HD 981. Tại diễn đàn LHQ tháng sáu năm 2014, TQ đã trưng bày những bằng chứng cho thấy VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Phía VN phải ngậm đắng nuốt cay vì không có tiếng nói nào cất lên để bênh vực cho VN. Ngoại trừ thông điệp thường nghe của LHQ “các bên giải quyết các tranh chấp bằng phương tiện hòa bình và bằng luật pháp quốc tế”.

Các bằng chứng mà TQ đưa ra là (những thứ) gì ?

Hồ sơ TQ đưa ra mỏng te ba tờ phô tô cóp py, thứ nhứt là công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Thứ hai là bản đồ do NXB quân đội VN sản xuất. Thứ ba là sách giáo khoa theo đó ghi nhận HS và TS (tức Tây sa và Nam sa) của TQ.

VN rốt cục “cô đơn”, ngay cả trong khối ASEAN, một mình đối đầu với TQ để bảo vệ quyền vài lợi ích của mình.

Theo tôi, đến nước này là hầu như “hết gỡ”. VN như con bịnh mà công hàm 1958 là cái mụt nhọt đau đớn.

Nguyên nhân do đâu ?

Dĩ nhiên là do đảng CSVN. Nếu ông Hồ, ông Đồng đặt chủ quyền lãnh thổ, đặt quyền lợi đất nước, dân tộc lên trên quyền lợi “quốc tế vô sản” thì đã không ký công hàm 1958.

Nhưng thái độ “bàng quan” của học giả, sử gia, nhà báo, nhà hoạt động chính trị… tức “giới tinh hoa” của VN, trong suôt thời gian hơn 50 năm cũng khiến cho cái mụt nhọt “công hàm 1958” trở thành cục ung thư khó chữa.

Đến hôm nay, phần lớn “giới tinh hoa” của VN đều có thái độ “đà điểu”, không ai dám nhìn thẳng vào sự thật lịch sử để tìm ra một giải pháp ít tổn hại nhứt cho dân tộc và đất nước.

Cá nhân tôi là người đầu tiên và duy nhứt chỉ ra rằng công hàm 1958 có giá trị pháp lý ràng buộc.

Cá nhân tôi cũng là người duy nhứt đưa ra được một giải pháp khả dĩ hóa giải công hàm này. Điều này tôi đã từng nói vào tháng năm năm 2014, nhân vụ giàn khoan HD 981.

Tôi làm được (những chuyện này) không phải vì cá nhân tôi “ưu việt”, mà vì tôi dám nhìn vào sự thật.

Theo tôi, giới tinh hoa của VN đang cắm đầu vào đống cát như đà điểu. Chủ nghĩa đà điểu đã khiến giới tinh hoa VN trở nên “hèn”.

Không dám nhìn sự thật bây giờ là để chạy trốn trách nhiệm trước các thế hệ tương lai. Đây cũng là “hèn”.

Theo tôi, công hàm 1958 không có giá trị pháp lý ràng buộc đơn giản chỉ vì nó đi ngược lại tinh thần hai hiệp ước nền tảng Genève 1954 và Paris 1973. Hai hiệp ước này nhìn nhận VN là một “quốc gia duy nhứt, độc lập, có chủ quyền, thống nhứt ba miền Nam, Trung, Bắc”.

Theo tôi, VN cần phải khẳng định chủ quyền bằng cách kế thừa di sản VNCH thông qua chính sách “hòa giải quốc gia”.

Kế thừa lãnh thổ không phải đơn thuần là Chính phủ lâm thời CHMNVN “kế thừa” VNCH. Điều này không thuyết phục vì MTGPMN và VNDCCH đều do đảng CSVN lãnh đạo.

Đâu thể nào MTGPMN và VNDCCH có cùng một lãnh đạo lại có hai lập trường đối nghịch về lãnh thổ?

Và nếu kế thừa đơn giản như vậy tại sao VN không đi kiện? Cũng không có quốc gia nào lên tiếng bênh vực VN trong các vụ giàn khoan HD 981, khu vực lô 136-03 (Vạn An Bắc của TQ), vụ TQ xây dựng các đảo nhân tạo, hay các vụ tập trận trên hải phận của VN ?…

Theo tôi, tiếp tục chủ nghĩa “đà điểu” là lọt vào bẫy của TQ, là trực tiếp giúp lãnh đạo CSVN chuyển nhượng lãnh thổ và vùng biển của VN một cách êm thắm cho TQ.