Chiến tranh Nga-Ukraina: Sự tương đồng và bài học cho Việt Nam

0
14
Vladimir Putin (trái) và Tập Cận Bình. Nguồn: Kenzaburo Fukuhara/ Pool/ Getty Images

TIẾNG DÂN

Hoàng Thị Hà

Cù Tuấn, dịch

12-4-2022

Tóm tắt: Cách tiếp cận tinh tế của Việt Nam đối với cuộc chiến Nga-Ukraina và việc Việt Nam từ chối thừa nhận cuộc xâm lược của Nga cho thấy Hà Nội đang xem xét kỹ lưỡng các tính toán về chính sách đối ngoại và quốc phòng của mình.

Khi chiến tranh Nga-Ukraina ngày càng gay gắt và thương vong ngày càng gia tăng, người Việt Nam đã tranh luận sôi nổi về hậu quả của nó. Cuộc khủng hoảng này thậm chí còn xuất hiện tại cuộc họp kín của lãnh đạo cao nhất của Việt Nam vào ngày 10 tháng 3. Nó đưa ra một lựa chọn khó khăn cho Hà Nội giữa việc duy trì nguyên tắc cơ bản là tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền và duy trì mối quan hệ tốt đẹp của nước này với Nga – quốc gia cung cấp vũ khí quan trọng và đối tác thăm dò dầu khí lớn ở Biển Đông. Cuộc khủng hoảng này cũng khơi dậy trong tâm hồn người Việt Nam những bài học mà Hà Nội nên học từ những lựa chọn chính sách đối ngoại của Ukraina.

Người ta đã nói nhiều về sự tương đồng giữa việc Nga xâm lược Ukraina và việc Trung Quốc có thể leo thang mạnh mẽ trong các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng. Nỗi lo sợ rằng Trung Quốc có thể lấy một chiêu trò từ sách vở của Nga bằng cách sử dụng lịch sử được sáng tạo lại và việc coi thường luật pháp quốc tế ở Biển Đông đã không còn xa trong tâm trí người Việt Nam. Trên thực tế, bị thúc đẩy bởi mối quan tâm tiềm ẩn này, Việt Nam đã ngầm chỉ trích hành động của Matxcơva là không phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc mặc dù nước này không nhắc đến Nga trong các tuyên bố chính thức của mình.

Một điểm tương đồng quan trọng hơn giữa Ukraina và Việt Nam là cả hai quốc gia này đều nằm trong khu vực ngoại vi của các cường quốc. Các khu vực lân cận tương ứng này dễ bị ảnh hưởng bởi các tình huống khó xử về chính trị và an ninh. Cả hai nước đều đã và sẽ tiếp tục là những đối tượng chính trong cuộc tranh giành phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc. Trọng tâm của sự tồn tại quốc gia của họ là ranh giới bấp bênh giữa việc duy trì quyền tự chủ chiến lược của họ và tính nhạy cảm với các mối quan tâm an ninh của các nước láng giềng lớn hơn so với các đối thủ ngang hàng khác.

Nga và Trung Quốc, trong tuyên bố chung ngày 4 tháng 2 năm 2022 – chỉ vài ngày trước khi Nga tấn công Ukraina – đã gợi lên khái niệm ‘an ninh không thể chia cắt’ để phản đối sự mở rộng của NATO sang vùng ngoại vi cận kề của Nga. Hai nước tuyên bố rằng cả hai nước sẽ ‘chống lại các nỗ lực của các thế lực bên ngoài nhằm phá hoại an ninh và ổn định ở các khu vực lân cận chung của họ’. Tương tự như Nga, Trung Quốc đã và đang tận dụng tất cả các biện pháp tầm quốc gia của mình đối với các nước láng giềng và phát triển khả năng chống tiếp cận/từ chối khu vực (A2/AD) để chống lại sự áp đặt về sức mạnh của các đối thủ ở xa, đặc biệt là Mỹ, trong khu vực lân cận của mình. Như Brantly Womack đã lưu ý, “Trung Quốc không có gì phải sợ Việt Nam ngoại trừ sự kết hợp của nước này với các cường quốc khác, và do đó quan điểm của họ bắt nguồn từ các mối quan tâm chiến lược chung.”

Cuộc chiến ở Ukraina đã gợi lại những ký ức về một chương đen tối trong lịch sử Việt Nam vào những năm 1980. Vào thời điểm đó, chính sách của Hà Nội hợp tác với Liên Xô và sự chiếm đóng kéo dài của họ ở Campuchia đã mang lại kết quả chiến lược tai hại cho đất nước này, đặc biệt là các mối quan hệ thù địch với Bắc Kinh và các nước ASEAN, kéo dài sự cô lập trên trường quốc tế và hủy hoại kinh tế. Một thập kỷ trước đó, sự bỏ rơi của Hoa Kỳ đã khiến Nam Việt Nam bất lực trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa. Câu thành ngữ “Nước xa không cứu được lửa gần” kể từ đó đã được đưa vào trong chiến lược của Việt Nam.

Nhiều người Việt Nam ám chỉ bài học khó từ quá khứ đau thương của chính họ: một quốc gia nhỏ hơn sống cạnh một nước láng giềng khổng lồ nên tránh trở thành chiến trường của các xung đột quyền lực lớn. Ngoài ra, Việt Nam không nên trông chờ vào sự trợ giúp từ bên ngoài để đảm bảo sự sống còn của mình. Đối với nhiều người Việt Nam, cuộc khủng hoảng Ukraina có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam ngày nay. Một số người theo chủ nghĩa bảo thủ của Việt Nam đã bày tỏ sự nghi ngờ về sự tán tỉnh của phương Tây đối với giới tinh hoa Ukraina có tư tưởng tự do, những người chỉ hướng đến phương Tây vì an ninh và tương lai của đất nước họ.

Như đã ám chỉ trong bài phát biểu gần đây của đặc phái viên Việt Nam tại Liên hợp quốc, ‘trong một số thời gian, lịch sử chiến tranh bền bỉ của dân tộc chúng tôi đã cho thấy rằng các cuộc chiến tranh và xung đột thường xuyên cho đến ngày nay đều xuất phát từ các học thuyết lỗi thời về chính trị quyền lực, tham vọng thống trị, và áp đặt việc sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế ‘. Ông Nguyễn Chí Vịnh, nguyên Thứ trưởng Quốc phòng và là nhà tư tưởng chiến lược nổi tiếng của Việt Nam, nói rõ hơn: ‘Chúng ta nên nói với những người bạn Ukraina của chúng ta rằng không nên để đất nước của họ trở thành một đấu trường của quyền lực chính trị, dựa vào sức mạnh quân sự, tránh đối đầu với người hàng xóm khổng lồ của bạn, và tránh chọn phe khi các nước lớn cạnh tranh nhau.’

Nhận định của tướng Vịnh về cuộc khủng hoảng Ukraina cũng mang tính hướng dẫn cho các nhà quan sát đang tìm cách đọc các ẩn ý mà Hà Nội có thể cân nhắc thứ tự các ưu tiên của mình trong quan hệ an ninh đối ngoại của Việt Nam. Tướng Vịnh tái khẳng định chính sách ‘Ba không’ – không liên minh quân sự, không liên kết với nước này chống lại nước khác và không có căn cứ quân sự nước ngoài – là nền tảng cho chính sách đối ngoại độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 cũng có một điều khoản mới trong đó tùy theo các điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ phát triển ‘quan hệ quốc phòng và quân sự cần thiết, phù hợp với các quốc gia khác’ để tăng cường lợi ích an ninh của mình. Đúng là có một sự căng thẳng cố hữu giữa cái trước và cái sau. Nhưng công thức Ba không mở rộng này cũng được coi là tạo ra sự cân bằng tốt giữa các đảm bảo an ninh của Hà Nội đối với Bắc Kinh và việc họ theo đuổi quan hệ quân sự với Mỹ và các nước cùng chí hướng khác để đối trọng với những bước tiến của Trung Quốc ở Biển Đông. Trên thực tế, Hà Nội – cùng với Singapore và Philippines – được coi là một trong những quốc gia Đông Nam Á có khuynh hướng hướng tới phía trước nhất về việc ủng hộ sự tiếp cận và hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á.

Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Ukraina, Hà Nội sẽ đầu tư đáng kể vào mối quan hệ quân sự mới chớm nở với Washington hay sẽ trở nên tôn trọng hơn sự nhạy cảm của Bắc Kinh? Chính quyền Biden coi Việt Nam là đối tác an ninh ưu tiên trong chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và tìm cách thúc đẩy quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược. Hà Nội liệu có nhảy vào vòng tay của Mỹ? Đánh giá về sự phản đối của Mỹ và các đồng minh NATO đối với Nga và ủng hộ Ukraina, Việt Nam sẽ tự tin hơn hay nghi ngờ hơn về việc Washington là quốc gia bảo đảm an ninh ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương?

Cách tiếp cận mang nhiều sắc thái của Việt Nam đối với cuộc chiến Nga-Ukraina cho thấy Hà Nội sẽ tiếp tục không [ngại] rủi ro trong việc phòng ngừa rủi ro giữa Washington và Bắc Kinh. Điều này sẽ cho phép những ai đang đặt cược vào quỹ đạo ổn định và đi lên của sự tương đồng chiến lược Mỹ-Việt đấu với Trung Quốc có thời gian để không phải chọn phe. Có một giới hạn đối với quan điểm chiến lược giữa Hà Nội và Washington khi cân bằng với Trung Quốc. Như nhận xét của Robert Sutter, “Các nhà hoạch định chính sách Mỹ nên lưu ý rằng Việt Nam tiếp tục dò dẫm trong cái bóng đổ dài của Trung Quốc.”