Đà Lạt còn chút sương mờ
Nắng lên tôi đón tuổi thơ tôi về
Nhiều năm về trước, ở Sài Gòn, chính quyền cho đổi những bóng đèn đường từ ánh sáng màu trắng quen thuộc sang đèn có ánh sáng màu vàng cam. Khi ấy, trong suốt thời gian đầu, khi thấy màu da cam của các ngọn đèn đường, tôi thấy lòng mình u uất, nặng nề. Ngẫm như lạ mà cũng như rất quen thuộc. Lạ, vì là lần đầu tiên trong đời tôi thấy các ngọn đèn đường có màu vàng cam, mà thấy cũng quen thuộc lắm như đã từng thấy. Nhưng không thể nhớ nổi là quen thuộc như thế nào ? Chỉ mơ hồ cảm nhận rằng dường như nó gắn chặt với một ký ức rất sâu sắc nào đó ? hay một giấc mơ đau buồn cùng cực mà tôi đã từng có ở tuổi ấu thơ chăng ?
Đến một ngày, tôi có dịp trở lại Dalat, vào buổi tối và khi nơi này cũng đã bắt đầu sử dụng những bóng đèn đường chiếu ánh sáng màu vàng cam. Ánh đèn hắt bóng xuống vỉa hè vắng, trải dài lên con dốc quanh co, như bất lực muốn xuyên thấu màn đêm mù sương lạnh, thì ám tượng ký ức trong tôi tưởng đã chôn chặt chợt thức giấc, làm vỡ òa cảm xúc kinh hoàng của tuổi ấu thơ khi tất cả những yếu tố để nhắc nhớ về ký ức ấy đang hội tụ. Bất chợt, tôi có câu trả lời cho tâm trạng u uất của mình trước ánh sáng màu vàng cam của ngọn đèn đường trong đêm.
Ám tượng ký ức tuổi thơ của tôi, ám tượng đêm …
Ám tượng từ buổi tối muộn một ngày cuối tháng 03/1975, mẹ con chúng tôi đã lên gường chuẩn bị cho giấc ngủ mộng mị, thì đột nhiên : “Ùm, oàng, oàng …” rồi “oàng …” có nhiều tiếng nổ to vang trời, chấn động, rung rinh cả nền đất. Các tấm kính ốp cửa sổ run bần bật từng cơn, điện đóm tắt phụt. Mẹ tôi giật mình thảng thốt vột đẩy tôi trốn xuống dưới gầm gường. Cùng với tiếng nổ liên tục thì bầu trời đêm đen kịt bổng đỏ rực rồi chuyển sang sắc vàng cam, sáng lên từng cơn một, chiếu vệt sáng lúc đỏ lúc vàng cam lừ đừ qua khe cửa, từ trái qua rồi từ phải qua liên tục không dứt. Mẹ con chúng tôi run lẩy bẩy dưới nền nhà sắc lạnh theo từng tiếng nổ rền …
Độ vài phút thì có tiếng chân người chạy rầm rập, giọng người nói lao xao, ngắt quãng, rồi tiếng đập cửa thình thịch la thất thanh : “Chị Thư ơi (tên mẹ tôi) chạy đi, Việt cộng vào rồi !”. Mẹ con chúng tôi rụng rời tay chân … Ôi trời ! kẻ làm tôi khiếp sợ hơn cả ông kẹ sắp xuất hiện chăng ? Mẹ tôi, bà chỉ kịp quơ vội thêm cái áo măng-tô choàng thêm cho tôi rồi dắt díu tay tôi chạy vội ra ngoài.
Ra đến cửa khu bệnh xá, dưới ánh sáng rực sắc vàng cam như lửa cháy in trên bầu trời đêm, chúng tôi chỉ còn thoáng thấy những bóng người cuối cùng của những gia đình công chức đang khuất dần sau khung cổng hướng ra đường cái. Mẹ con chúng tôi lập cập, run rẩy chạy theo.
Chạy ra đến cổng, luống cuống vấp phải những viên đá xanh mấp mô lát lề đường làm mẹ tôi trượt ngã sóng soài … Tôi, sức trẻ con cố gắng kéo mẹ đứng dậy, miệng trấn an : “Mẹ cứ yên chí, có con đây, có con đây …”. Sau này có lúc nhắc lại, tôi vẫn không hết mắc cỡ khi mẹ tôi cười mà rằng : “Không biết ông con khi ấy làm được gì mà cứ anh hùng cái miệng “Có con đây” … nhưng mắt bà ngấn lệ. Có lẽ bản năng chở che, đùm bọc luôn luôn tiềm ẩn trong tâm thức mỗi người đàn ông, cho dù khi họ vẫn còn là đứa trẻ con chăng?
Lúc này, chúng tôi thấy khá nhiều người đang cùng hối hả chạy về một hướng. Chúng tôi cứ thế chạy theo, những bước chân vô định mà không rõ đích đến cuối cùng là đâu ? Trên bầu trời đêm, vẫn sáng hực sắc vàng cam theo từng tiếng nổ lớn nhỏ liên hồi.
Chúng tôi nghe những người cùng chạy nói chuyện với nhau qua tiếng thở hổn hển, giọng đứt quãng: “Trường Võ bị Sĩ quan đã di tản rồi, kho đạn và kho xăng của trường đang cháy nổ!?!” … Câu chuyện này như một lời đồn không rõ hư thực, nhưng gây hoang mang cùng cực, nó lan truyền nhanh chóng như cơn đại dịch. Vì trường võ bị sĩ quan khi ấy như chỗ dựa tinh thần cho người dân, nhưng họ đã lặng lẽ di tản mà những người dắt díu nhau chạy trong đêm, có lẽ là những người sau cùng ở Dalat biết được thông tin muộn màng như thế này!?
Cư dân Dalat, có lẽ họ không bao giờ muốn nhớ lại những ngày như thế này, ngày mà Dalat trải qua những thời khắc chưa từng có kể từ ngày Bác sỹ Yersin khám phá ra vùng đất thần tiên này. Bởi lẽ, trong hầu hết thời gian tồn tại của mình, thì Dalat như một vùng đất hứa cho các đôi tình nhân, nơi giáo dục, nơi du khách luôn luôn muốn tìm đến, để ân hưởng lạc thú thiên nhiên, để chiêm nghiệm lòng mình … thì bây giờ, không có du khách ở đây đã đành, mà cả những cư dân Dalat đang tìm mọi cách để trốn chạy, để thoát thân, để di tản khỏi Dalat càng nhanh, càng xa thì càng tốt.
Mẹ con chúng tôi là một trong số họ. Chúng tôi chạy một đoạn đến giao lộ có ngôi trường Phan Chu Trinh tọa lạc thì theo dòng người rẽ trái rồi lại rẽ trái một lần nữa vào đường Hùng Vương. Ngay gần đấy, một đoàn xe be (xe reo) đang đậu sẵn ở đấy, họ dường như đang chuẩn bị để khởi hành. Mẹ tôi cùng một số người dừng lại xin đi nhờ. May mắn, có lẽ họ động lòng thương tình hoàn cảnh người phụ nữ dắt díu con nhỏ nên một tài xế chấp nhận cho mẹ con chúng tôi lên xe.
Yên vị trên khoang tải của xe tầm một lát, xe nổ máy, mọi người thở phào nhẹ nhõm, nhưng thay vì khởi hành thì cả đoàn xe đều chạy vào bãi đậu ngay bên kia đường, họ tắt máy xe … Mọi người đang ngồi trên xe đều ngơ ngác, họ đinh ninh trong hoàn cảnh “dầu sôi, lửa bỏng” như thế này thì rời Dalat sớm lúc nào hay lúc ấy. Ai đó thông báo là đoàn xe sẽ khởi hành vào sáng hôm sau. Cùng với những hành khách quá giang xe, mẹ con chúng tôi không có nhiều sự lựa chọn.
Đêm ấy, chúng tôi không ngủ trên xe mà chập chờn giấc ngủ mộng mị dưới gầm chiếc xe be. Lúc ấy và tại đó có lẽ là nơi an toàn nhất cho chúng tôi trong cảnh trời đêm với sắc màu da cam vẫn cứ hực lên như sài giật từng cơn theo tiếng nổ vang rền, rung chuyển nền đất. Sắc màu ấy cứ chuyển lừ đừ từ trái sang phải hoặc ngược lại. Liên tục, liên tục hết cơn này đến cơn khác không dứt…
Sắc màu da cam trong đêm cuối tháng ba năm ấy đã len lỏi rồi ngự trị trong tâm trí của tôi đến mức trở thành ám tượng ký ức tuổi thơ mà tôi không hề hay biết. Chúng trở lại nhắc nhớ tôi khi xuất hiện những ngọn đèn đường sắc màu da cam trên phố thị.
Hôm sau, chúng tôi rời Dalat nơi mà mãi cho đến khi viết những dòng chữ này thì tôi vẫn luôn luôn muốn trở lại. Thực tế, tôi đã trở lại nơi đó rất nhiều lần, về đến tận nơi, tựa hẳn vào bức tường rêu cũ, phóng tầm mắt nhìn qua một trường học vốn là bãi xe be ngày nào… nhưng vẫn không thấy nơi mình nghĩ đã thuộc về. Những gì tôi mong mỏi tìm kiếm thì đã mất, mất rồi, mất vĩnh viễn. Ngậm ngùi, tôi chợt thấy mình quá xa lạ tại nơi tưởng rằng quen thuộc.
Sáng tinh sương hôm sau, sáng đầu tiên của chuỗi hành trình khoảng mươi ngày di tản sau đó, tuổi thơ của tôi bắt đều biết đến những địa danh lạ lẫm mà một số tôi còn nhớ đến ngày hôm nay: Rừng Lá, Sông Phan, Bình Tuy… để trở về đích đến cuối cùng là Sài Gòn!
Sài Gòn, đô thành của miền nam khi ấy là đích đến, là nơi bấu víu, là điểm hy vọng cuối cùng của hầu hết người dân Miền Nam di tản trong những giờ phút hấp hối của chế độ Sài Gòn cũ …
(Còn nữa)
Sài Gòn, tháng 11/2013
Viết lại, DC, ngày 30/03/2024
Đặng Đình Mạnh
Wow superb blog layout How long have you been blogging for you make blogging look easy The overall look of your site is magnificent as well as the content