Mô hình quốc gia liên bang: một quốc gia hai chế độ.

    0
    844
    Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam, đồng thời là Trưởng Ban chỉ đạo trung ương phòng chống tham nhũng. AFP
    Nhân Tuấn Trương đang ở cùng với Khanh Vu Duc.

    Việt Nam hiện nay đang đối mặt trước nhiều vấn đề nan giải: đối nội thì phát triển kinh tế ì ạch, nạn tham nhũng tràn lan ở mọi cấp đảng và chính quyền, xã hội bất an dưới thì trộm cướp, trên thì lạm dụng quyền lực, mọi mặt văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội… đều tồi tàn, hạ tầng cơ sở yếu kém, tài nguyên dầu khí đã khai thác cạn kiệt trong khi nợ công ngày càng tăng cao, (lợi tức quốc dân sẽ không đủ để trả nợ)… Đối ngoại thì kém cõi trong việc giải quyết tranh chấp biển Đông, thứ bậc uy tín quốc gia mỗi ngày mỗi suy giảm…

    Nhưng điều nan giải có thể đưa đến quốc gia phân liệt là nạn kỳ thị vùng miền.

    Lãnh đạo miền Bắc, vốn là “bên thắng cuộc” trong cuộc chiến 75, trong suốt hơn 40 năm độc quyền lãnh đạo, đã liên tục áp dụng những chính sách bất bình đẳng đối với dân chúng miền Nam. Trong một thời gian (rất) dài, trẻ em sinh trưởng ở miền Nam bị hạn chế trong việc học. Chính sách “tờ khai lý lịch” là rào cản khiến những đứa trẻ xuất thân từ thành phần “ngụy” không thể bước chân qua ngưỡng cửa đại học. Đồng bằng sông Cửu Long được mệnh danh “vùng trũng giáo dục”. Nhà thương, trường học, đường xá, cầu cống, điện nước… tức cơ sở hạ tầng cần thiết để miền Nam phát triển, không được nhà nước quan tâm. Dầu khí khai thác (các mỏ ở miền Nam) tính sơ cũng phải cả chục ngàn tỉ đô la mà ở miền Nam không có cây số nào đường xa lộ. Chỉ một đoạn đường được xây dựng chắp vá ngắn đi tắt qua Cai Lậy thì đặt trạm thâu tiền. Sản lượng miền Nam về lúa gạo đứng đầu thế giới nhưng nông dân VN vẫn là những người vô sản chân chính (vì đất đai do nhà nước quản lý), nghèo cùng cực đến đỗi không đủ gạo mà ăn. Bao nhiêu của cải làm ra đều đưa về miền Bắc. Một thí dụ mỗi năm Sài gòn phải “tiếp máu” cho Hà Nội (tức trung ương) 82% của cải làm ra, chỉ được giữ lại 18% cho phát triển thành phố.

    Về mặt lãnh đạo quốc gia, luật “bất thành văn” (của ông Trọng đặt ra), chỉ có “Bắc kỳ biết lý luận” mới được làm tổng bí thư. Luật này đã có từ lâu nhưng ông Trọng là người biểu lộ đầu tiên. Tức là, dưới một cái nhìn thực tế, miền Nam đang bị miền Bắc đô hộ. Điều tệ hại là sự “đô hộ” của miền Bắc còn khắc khe nhiều lần hơn thời Pháp thuộc.

    Đứng trước những mâu thuẩn trầm trọng về nội bộ, gây ra do “bên thắng cuộc” Bắc kỳ, giải pháp nào để VN không bị tụt hậu do lãnh đạo vừa tham nhũng vừa bất tài, không bị phân liệt vì nạn kỳ thị vùng miền ?

    Rừng đã hết và biển đã chết. Các mỏ dầu cũng cạn kiệt. Tài nguyên bây giờ chỉ còn mồ hôi, sức lao động của con người. Mà giá trị kinh tế của con người VN chỉ ngang hàng với “lao động thô sơ”, vì con người VN không được giáo dục đến nơi đến chốn các kỹ năng về trí tuệ.

    Theo tôi, trí thức VN cần phải can đảm nhìn vào sự thật để thấy VN đang bị đe dọa vừa tụt hậu, vừa phân liệt.

    Vì vậy giải pháp phân chia VN thành hai miền Nam và Bắc, hai miền hai chế độ. Quốc gia Việt Nam trở thành Cộng hòa liên bang Việt Nam với hai tiểu bang Nam Việt và Bắc Việt.

    Điều này hoàn toàn phù hợp với công pháp quốc tế, vì nó đặt nền tảng trên các hiệp định khai sinh quốc gia Việt Nam, đó là hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973.

    Hai hiệp định khẳng định Việt Nam là một quốc gia “độc lập, có chủ quyền, lãnh thổ bất khả phân, thống nhứt ba miền bắc, trung, nam”. Hiệp định Paris 1973 qui định mỗi miền có “quyền lựa chọn chế độ chính trị thích hợp” (tức quyền dân tộc tự quyết).

    Quốc gia liên bang (như Mỹ, Đức…) là “quốc gia độc lập có chủ quyền, thống nhứt các miền”. Một quốc gia hai chế độ cũng là việc thường thấy, như TQ với lục địa và Đài loan, Hồng Kông…

    Điều này được thực hiện thì vấn đề tranh chấp Biển Đông sẽ được “đơn giản” hóa. Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VN, trước 75 do miền Nam (VNCH) quản lý, có đầy đủ bằng chứng chủ quyền, lịch sử và pháp lý, thì bây giờ tiếp tục do “tiểu bang Nam Việt quản lý”, với những bằng chứng pháp lý và lịch sử có giá trị không thay đổi. Công hàm 1958 của Phạm văn Đồng cùng những bằng chứng pháp ý và lịch sử khác, khẳng định HS và TS thuộc TQ, tự động sẽ vô hiệu hóa.

    Điều này được thực hiện, dân chúng hai miền tranh đua với nhau để phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, tổ chức xã hội v.v… Miển Bắc, nếu thích, cứ tiếp tục xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô hình Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. cũng như tiếp tục xây dựng “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Miền Nam thì đơn giản, chỉ cần xây dựng “quốc gia dân chủ pháp trị” và kinh tế tự do theo qui luật kinh tế thị trường.

    Lãnh đạo miền nào sẽ do dân miền đó bầu lên. Tổng thống (hay chủ tịch) liên bang sẽ luân phiên, theo nhiệm kỳ định trước.

    Điều này xảy ra, có lợi là toàn dân VN. Tất cả các “vấn nạn khó khăn” đều được đơn giản hóa. Phía bất lợi là đảng CSVN.

    Các vụ kỳ thị vùng miền, chia để trị, gây mâu thuẩn để dễ cai trị… xưa nay là thủ thuật của đảng CSVN. Ông Trọng khi nói “Tổng bí thư phải do Bắc kỳ biết lý luận phụ trách” là có lý do. Vì vậy bất cứ đề nghị nào, cho dầu có hay cách mấy, làm lợi cho đất nước, cho dân tộc cách mấy, nếu nó có hại cho đảng thì đề nghị này trở thành “phản động”. Ý kiến này rồi cũng sẽ vậy.

    (Ý kiến này là “nho còn xanh”, lẽ ra không nên nói trong lúc này. Nhưng vì thấy nhiều chính trị gia tâm thần tự phong tổng thống, có tham vọng phục hoạt VNCH, hoặc những người vĩ cuồng, người dốt nhưng nhiều tham vọng chính trị… E rằng dân mình trên facebook nhiều người bị mắc bẫy. Bất đắc dĩ phải đưa ra như một “đề nghị”).