Tác giả: Olga Dror
Dịch giả: Trúc Lam
26-1-2018
Tháng 12 năm 1966, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hay Bắc Việt, và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã ký một thỏa thuận thành lập trường học cho trẻ em Bắc Việt ở Trung Quốc, qua việc Trung Quốc cung cấp cơ sở vật chất, ngân quỹ và trang thiết bị. Chiến dịch ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam lên cao điểm và Hà Nội muốn chuyển sinh viên của mình đến một nơi an toàn.
Điều thực sự đáng chú ý đối với nỗ lực giáo dục xuyên biên giới này là nó khởi sự trong lúc giữa cuộc Cách mạng Văn hoá Trung Quốc, bắt đầu vào tháng 5 năm 1966 và phá huỷ hệ thống giáo dục Trung Quốc (và đã làm cho nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn loạn). Nhưng người Trung Quốc sẵn sàng dành chỗ cho Bắc Việt vì làm như vậy phục vụ mục đích địa chính trị cao hơn: Cạnh tranh với Liên Xô để lãnh đạo phong trào cộng sản toàn cầu.
Chương trình của Trung Quốc, được gọi là Dự án 92, gồm thiết bị giảng dạy và xây dựng trường học, cũng như các khoản chi phí hàng ngày (“92” là ngày 2 tháng 9 năm 1945, ngày Việt Nam tuyên bố độc lập từ Pháp). Một cơ sở, trường của ngày 2 tháng 9 đã được thành lập, đặc biệt cho trẻ em đến từ miền Nam Việt Nam. Một trường học khác cho các học viên quân sự mang tên Nguyễn Văn Trỗi, một thanh niên Sài Gòn, hồi tháng 5 năm 1963, đã cố ám sát Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara trong chuyến viếng thăm Nam Việt Nam của ông ta và đã bị hành quyết bằng cách xử bắn. Vì quân đội Trung Quốc ít bị ảnh hưởng bởi Cách mạng Văn hoá hơn là hệ thống giáo dục dân sự, nên quân đội đã chỉ đạo các nỗ lực xây dựng.
Trường học chỉ là các cơ sở giáo dục cơ bản; mục tiêu của họ là tạo ra, ở một vị trí an toàn, “một trường học xã hội chủ nghĩa tiên tiến” để đào tạo thế hệ người Việt tiếp theo. Họ đã thấm nhuần đạo đức cách mạng và tinh thần xã hội chủ nghĩa. Và học sinh trở thành các chiến binh sẵn sàng và nhiệt tình khi đến lượt họ gia nhập quân đội. Các giáo viên phải dạy Năm điều bác Hồ, và họ phải làm quen với chương trình nghị sự của Bắc Việt, để chắc chắn các em hiểu rằng, đó là do kẻ thù Mỹ mà đất nước của họ bị chia cắt làm hai, rằng gia đình họ đã bị phá vỡ và quê hương của họ đã bị hủy hoại. Nói tóm lại, mục đích là để cho các đứa trẻ háo hức khi chính phủ gọi chúng đi đánh Mỹ.
Tháng 12 năm 1967, ba trường kết hợp lại thành Học khu Nam Việt Nam và hệ thống mới đã được khánh thành. Hầu hết các công trình xây dựng đã được hoàn thành vào tháng 8 năm 1968, và cả hai bên đã gặp nhau để thảo luận về hợp tác trong tương lai, đặc biệt là nhu cầu tăng cường giáo dục chính trị cho học sinh, kết hợp lý thuyết và thực tiễn, kết hợp trao đổi kinh nghiệm thu được trong cuộc Cách mạng Văn hoá ở Trung Quốc và chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam. Người ta cũng quyết định rằng khi người Việt trở về, họ có thể mang theo tất cả các thiết bị giảng dạy cũng như vũ khí (vũ khí không được đề cập trong các thỏa thuận trước đó).
Hệ thống bao gồm bảy trường với hơn 2.000 học sinh, cán bộ và giáo viên. Nhiều học sinh là con của các cán bộ, đảng viên bị giết trong cuộc chiến chống Pháp và Mỹ. Những em học sinh được mang tới từ các khu vực khác ở Việt Nam, từ miền Nam cũng như từ miền Bắc. Họ được báo cáo đại diện cho khoảng 30 dân tộc, mặc dù không nói rõ là dân tộc nào. Họ đến vào những thời điểm khác nhau, họ có trình độ học vấn khác nhau và họ ở các độ tuổi khác nhau.
Chương trình có những thiếu sót của nó. Các trường học tập trung vào một mảnh đất nhỏ (chưa tới một cây số vuông) thiếu không gian lớp học, cũng như không gian cho nhà ở, hoạt động bên ngoài, sản xuất hoặc các hoạt động xã hội. Hơn nữa, bất chấp nền tảng chính trị của họ, sinh viên đến với một loạt các quan điểm chính trị đầy bực bội. Một nhóm đi theo đường Hà Nội. Nhóm này “dưới sự chăm sóc của Đảng và Bác, và đó là lý do tại sao họ có sự thù hận đối với người Mỹ và tay sai” – nói cách khác, những người chống Cộng sản ở miền Nam – là “những người bán nước”. Học sinh trong nhóm này “gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cảm thấy tin tưởng tuyệt đối vào Bác Hồ, và Đảng Lao động Việt Nam”. Mặt khác, trong số này có những học sinh đã từng trải qua, theo một báo cáo, “ảnh hưởng sa đọa của Mỹ” và những em thiếu kỷ luật, một cảm giác về bản sắc dân tộc và tình yêu đối với đất nước.
Ngoài những khó khăn đó, theo đánh giá của Bộ Giáo dục Bắc Việt, thiếu giáo viên và những người ở đó có trình độ văn hoá rất thấp. Nhiều giáo viên muốn trở về nhà. Nhiều người trong số họ không có tinh thần cách mạng và vì họ mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, chẳng hạn như quan hệ bất hợp pháp giữa các cán bộ nam và nữ, vi phạm các nguyên tắc giáo dục xã hội chủ nghĩa, như đánh đập hoặc kỷ luật học sinh khắc nghiệt.
Các quản trị viên cũng là một vấn đề. Nhiều người trong số họ vẫn còn “theo các công ước cũ và những khái niệm lạc hậu”, theo một phân tích, đã thay thế những quan niệm cách mạng về tình bạn, tình yêu và sự phục vụ. Theo Bộ Giáo dục, thái độ xấu của họ đã chiếm ưu thế hơn những cam kết của họ đối với các tổ chức đảng và thanh thiếu niên. Vấn đề vật chất làm trầm trọng thêm những khó khăn về ý thức hệ. Các khu nhà ở quá tải, không đáp ứng được các yêu cầu về vệ sinh. Các lớp học không được trang bị đầy đủ. Đôi khi trẻ em ở các độ tuổi khác nhau đã phải học chung với nhau. Tài liệu giảng dạy đến chậm.
Trung Quốc có ba vấn đề chính trong việc giúp đỡ mở rộng hệ thống giáo dục Việt Nam. Đầu tiên là tình đoàn kết với người mà mình bảo hộ. Cảm giác đó phát sinh từ liên minh chặt chẽ giữa người Cộng sản Trung Quốc với Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp, khi Trung Quốc cung cấp phương tiện để tiếp tục cuộc chiến và người Việt Nam đã đáp lại với lòng biết ơn và sự thi đua. Những người cộng sản Trung Quốc đã chứng kiến những thành tựu của những người cộng sản Việt Nam khi có sự mở rộng cho chương trình nghị sự về cuộc cách mạng của chính họ.
Thứ hai là cạnh tranh với Liên Xô về chuyện lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế và ảnh hưởng tới những nước được gọi là “thế giới thứ ba”, bao gồm cả Việt Nam. Cuộc cạnh tranh Trung-Xô phát triển vào cuối thập niên 1950 và tiếp tục kéo dài suốt thập niên 1960. Cho các đồng minh Việt Nam một nơi trú ẩn an toàn cho các trường học ngay bên kia biên giới là điều mà Liên Xô không có khả năng cung cấp cho người Việt Nam, và điều này đã tạo ra một địa điểm nuôi dưỡng cả sự trợ giúp thực tế và tinh thần của sự bảo trợ cảm thông.
Cuối cùng, chương trình đã tạo cơ hội để ủng hộ một cuộc chiến mà Hoa Kỳ đã chiếm đóng quân sự bên ngoài biên giới Trung Quốc – làm cho Mỹ không phải là mối đe doạ đối với Trung Quốc.
Mặc dù gặp khó khăn, hệ thống này đã kiên trì cho đến giữa năm 1975 thì chấm dứt và tất cả học sinh, giáo viên và cán bộ quản lý trở về Việt Nam. Đến năm 1975, miền Bắc Việt Nam đang trên đường chinh phục miền Nam, và nhu cầu về các cơ sở giáo dục như thế đã giảm đi. Nhưng mối quan hệ Trung-Việt cũng đang chua cay. Chiến dịch cuối cùng của Hà Nội đối với Sài Gòn được thúc đẩy bởi sự trợ giúp của Liên Xô, và việc củng cố sự cai trị của cộng sản khắp Việt Nam đã biến một đồng minh của Trung Quốc trở thành mối đe dọa. Mặc dù có thể khi Việt Nam và Trung Quốc xảy ra chiến tranh vào năm 1978, có một số lính Việt Nam đã từng học trên đất Trung Quốc, vẫn còn rất nhiều người tiếp tục yêu mến những năm tháng họ học hành ở Trung Quốc.
Olga Dror là phó giáo sư môn lịch sử tại trường Đại học Texas A & M và là tác giả cuốn sách “Chia làm hai nước Việt Nam: Chiến tranh và Bản sắc Thanh niên, 1965-75”. Bài báo này dựa trên tài liệu sẽ xuất hiện trong một bài luận, số ra mùa Xuân năm 2018 của Tạp chí Nghiên cứu Chiến tranh Lạnh.
© Copyright Tiếng Dân – Bản tiếng Việt