Vắn tắt về “Việt Nam bị từ chối là nền kinh tế thị trường” – Bộ thương mại Hoa Kỳ báo cáo.
Việt Nam dùng chính trị để thuyết phục Hoa Kỳ rằng họ sẽ có lợi khi nâng Việt Nam thành nền kinh tế thị trường. Ở thời điểm bầu cử, khi điểm số của hai đảng sát sao, lá phiếu của nhiều người dân thường được tập trung thông qua các đại diện ‘có tiếng nói’. Các đại điện, các hiệp hội lên tiếng bảo vệ nền kinh tế Mỹ hiện tại nhiều hơn số người ủng hộ Việt Nam. (360 ngàn trang tài liệu được gởi về để chính phủ xem xét vấn đề kinh tế thị trường của VN).
Ngay tay chơi chính trị có số má cũng không dám nghiêng về phía Việt Nam. Nghiêng về Việt Nam nghĩa là bán đứng vốn liếng chính trị ở vào thời điểm nhạy cảm nhất (bầu cử), hoặc cái ‘có lợi’ thực ra lại là gánh nặng cho Đảng của họ, cho ứng viên Tổng thống nhiệm kỳ sau. Người ta chọn sai thời điểm trong vấn đề chính trị.
Trong chính trị, vấn đề người đại diện rất quan trọng. Ai là người Mỹ được nhân dân Mỹ tín nhiệm, hoặc có thể thuyết phục nhân dân Mỹ rằng quyết định chính trị này có lợi cho các tổ chức của Mỹ? Vể thuần chính trị, sẽ không bao giờ để Mỹ nâng Việt Nam thành nước có nền kinh tế thị trường.
Giờ không nói về chính trị nữa. Cơ bản kinh tế thị trường là do thị trường quyết định. Nói thực tế, Mỹ xem xét một nước có nền kinh tế thị trường theo luật pháp của Mỹ (có từ 1930), và áp dụng cho tất cả các nước, không thiên vị bằng cách dùng luật khác, quyết định chính trị khác. Gồm 6 mục:
-
Khả năng chuyển đổi ngoại hối (từ VND sang các đồng tiền khác, và ngược lại):
Chính phủ VN tiếp tục tiến hành can thiệp ngoại hối để tác động đến giá trị của tiền đồng và ngân hàng trung ương Việt Nam (NHNN) không độc lập với bộ máy hoạch định chính sách. Hơn nữa, tiền đồng này nằm trong danh sách những nước thao túng tiền tệ nghiêm trọng nhất của Bộ Tài chính Mỹ cho đến năm 2022. Một năm được xếp không thao túng tiền tệ là không đủ để dặt Việt Nam từ “chính phủ” kiểm soát, sang ‘thị trường” kiểm soát. Về tương lai, dù có nhiều năm được xếp là không thao túng tiền tệ đi nữa, thì yếu tố “chính phủ” kiểm soát vẫn nhiều hơn thị trưòng kiểm soát. Vậy nên: Ở mục này điểm số nghiêng về phía chính phủ.
2. Mức độ lương được xác định bằng thương lượng tự do giữa lao động và quản lý
Luật cho phép thương lương tư do (de jury), thực tế (de facto) không có, thiếu sự bảo vệ của luật pháp.
Bộ luật Lao động Việt Nam (2019) đã hợp pháp hóa không chỉ việc thành lập công đoàn mà còn cả quyền thương lượng tập thể của các công đoàn đó. Bất chấp những cải cách pháp lý của Chính phủ VN trong lĩnh vực này, thị trường lao động Việt Nam không phản ánh tự do thương lượng giữa lao động và quản lý.
Bên công đoàn cấp dưới biết rõ. Sự tự do thương lượng hoặc đình công là không có, vì nỗi sợ bị trừng phạt, mất việc còn lớn hơn.
Các công đoàn thực sự độc lập với Chính phủ VN là bất hợp pháp ở Việt Nam. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (VGCL) do nhà nước kiểm soát và các tổ chức trực thuộc là các tổ chức lao động duy nhất tồn tại ở Việt Nam. Ngoài ra, đình công nói chung được xem là bất hợp pháp ở Việt Nam (cấm kỵ, phản động, làm chậm phát triển kinh tế chung…) và được thuyết phục tránh/giảm bớt tác hai của đình công, Hệ thống không giải quyết hiệu quả các xung đột và bất bình lao động. Tất cả những vấn đề này đã làm tổn hại đến khả năng của người lao động trong việc tổ chức và thương lượng tập thể để có mức lương cao hơn.
Kết luận: Chính phủ kiểm soát thương lượng điều kiện lao động. Thị trường bị kiểm soát bởi chính phủ.
3. Mức độ cho phép liên doanh hoặc đầu tư khác của các công ty nước ngoài
Đầu tư nước ngoài vẫn bị hạn chế trong một số lĩnh vực và hoạt động thương mại quá mức, một phần hoặc toàn bộ. Những thách thức cũng bao gồm các rào cản tiếp cận thị trường nói chung, quan liêu, thiếu minh bạch trong các quy trình pháp lý và không bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các công ty.
thị trường và chính phủ đồng 0.5 điểm
4. Mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của chính phủ đối với các phương tiện sản xuất.
Luật pháp Việt Nam vẫn yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước phải đóng vai trò hàng đầu trong nền kinh tế và lợi ích vẫn được trao cho các doanh nghiệp khu vực nhà nước một cách không cân xứng so với các đối tác khu vực tư nhân.
Khu vực tư nhân của Việt Nam, chiếm gần một nửa GDP theo số liệu mới nhất, đã không tăng trưởng kể từ năm 2002, phần lớn là do khả năng tiếp cận các nguồn lực hạn chế (ví dụ: vốn).
Nhà nước tiếp tục sở hữu và kiểm soát nhà nước đối với đất đai, một phương tiện sản xuất quan trọng, ở Việt Nam là một ví dụ minh họa về cách chính phủ quyết định kết quả thị trường.
Chính phủ: Thắng điểm.
5. Mức độ kiểm soát của chính phủ đối với việc phân bổ nguồn lực và quyết định giá cả và sản lượng của doanh nghiệp.
Chính phủ VN đã giảm số lượng kiểm soát giá cả đối với hàng hóa kể từ năm 2002. Bất chấp những cải cách định hướng thị trường quan trọng này, việc phân bổ nguồn lực đáng kể vẫn đang được chính phủ tiến hành và việc kiểm soát giá cả rộng rãi đã kéo dài từ năm 2002. Hơn nữa, Chính phủ VN vẫn phụ thuộc rất nhiều vào kế hoạch nhà nước như một phương tiện thông qua đó nó chỉ đạo các quyết định kinh doanh để đạt được sản lượng và các kết quả kinh tế khác. Vì các lợi ích như thực hành cho vay ưu đãi vẫn được ban tặng không cân xứng cho các công ty khu vực nhà nước so với các đối tác khu vực tư nhân của họ, cần phải cải cách cơ cấu sâu hơn trước khi các quyết định về tài nguyên, giá cả và sản lượng chủ yếu được thúc đẩy bởi các điều kiện thị trường hình thành tự do.
Chính phủ: 1 điểm.
6. Các yếu tố khác mà cơ quan quản lý cho là phù hợp.
Từ năm 2002, Việt Nam đã thực hiện những cải cách pháp lý đáng chú ý bằng cách cải thiện việc bảo vệ quyền hợp pháp đối với các tập đoàn, tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn và thúc đẩy tính minh bạch tốt hơn trong quản trị doanh nghiệp. Liên quan đến tham nhũng, Việt Nam đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng, số 36/2018/QH14 (Luật Phòng, chống tham nhũng (2018)), trong đó mở rộng các biện pháp phòng, chống tham nhũng và đưa ra các yêu cầu kê khai tài sản chặt chẽ hơn. Bất chấp những nỗ lực này, ảnh hưởng dai dẳng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trong hệ thống pháp luật Việt Nam tiếp tục phá hoại độc lập tư pháp và thực thi pháp luật hiệu quả. Những thách thức đáng kể khác đối với hệ thống pháp luật của nó bao gồm việc thực thi pháp luật không nhất quán và các vấn đề về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đang diễn ra. Hơn nữa, tham nhũng vẫn còn phổ biến, với các trường hợp nổi bật làm nổi bật khoảng cách giữa ý định lập pháp và thực hiện thực tế. Những vấn đề này không chỉ ngăn cản đầu tư nước ngoài hơn nữa mà còn cản trở sự tiến bộ của Việt Nam hướng tới một nền kinh tế thị trường đầy đủ chức năng.
Thị trường: 0 điểm.
Tổng kết: Chính phủ 5.5/6 điểm, thị trường: 0.5/6 điểm. Việt Nam vẫn là nền kinh tế không do thị trường quyết định.
ĐIểm số tự đánh giá 3 tháng trước, không phản ánh điểm số đánh giá hiên tại của bộ thương mại Mỹ.
Vitazen Keto Gummies For the reason that the admin of this site is working, no uncertainty very quickly it will be renowned, due to its quality contents.