![Trần Dần](https://vietnamweek.net/wp-content/uploads/2024/01/Tran-Dan-696x527.jpeg)
Sinh năm một ngàn chín trăm hai mươi sáu và mất năm một ngàn chín trăm chín mươi bảy, Trần Dần từng cùng với Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương và vài người nữa, thành lập nhóm thơ tượng trưng, vào những năm bốn mươi sáu của thế kỷ trước.
Năm một ngàn chín trăm bốn mươi chín, ông vào đảng cộng sản, sáu năm sau, ông viết đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân ngũ.
Ông từng tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, chống lại sự lãnh đạo của đảng trong văn nghệ, đòi được quyền xuất bản các tác phẩm phê phán cải cách ruộng đất của ông, mà đỉnh điểm là tác phẩm Nhất Định Thắng của ông đăng trong Giai Phẩm Mùa Xuân năm một ngàn chín trăm năm mươi sáu:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Ông bị bắt, sau đó. Trong tù, ông toan cứa cổ tự sát nhưng không thành. Ông viết thư cho Nguyễn Chí Thanh. Vị tướng lãnh này ra lệnh cho quân đội thả ông nhưng dặn thuộc cấp phải coi chừng, theo dõi.
Khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị đánh, Trần Dần đồng thời, bị khai trừ ra khỏi hội nhà văn, bị cấm xuất bản ba năm và bị đi cải tạo lao động nhiều năm liền.
Nếu Hoàng Cầm, giai đoạn này, từng đau khổ thốt lên trong Về Kinh Bắc:
Về kinh bắc phải đâu con nghẹn khóc
Con không cười, con thoảng nhớ thoảng quên.
Thì Trần Dần, cũng thất thểu cùng kỷ niệm, quay đầu về Nam Định mà khóc:
Tôi kiểm điểm bản thân cùng một thời đại buồn rầu
Đêm xuống ướt mui rồi
Sông khuya tì tũm vỗ
Đi thôi! Kỷ niệm!
Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
Có sương sớm đọng trên đèn muộn
Tù và thơ ơi
Dạ khúc khởi đầu.
(Khai Từ)
Đường thì xa ngái. Đêm lại càng thêm tối đêm:
Tượng Chúa Jê-xu búa gõ tầm tầm
Gió đánh hàng bàng, lá chết chạy vòng quanh.
(Khai Từ)
Mãn hạn, ông trở về gia đình trong thân thể bệnh tật, ốm yếu. Sống âm thầm tại Hà Nội với nghề dịch sách báo, tô màu tranh, ông đứng ngoài hết thảy các sinh hoạt văn nghệ, cho đến ngày mất.
Đứng ngoài, nhưng ông vẫn thầm lặng viết. Một kiểu của nhật ký, ghi chép về thân phận của con người trong cải cách ruộng đất và đấu tố, thân phận con người sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm.
Về già, ông bị mất trí nhớ, đó là di chứng của những lần ông bị tai biến, xuất huyết não.
******
Các nhà phê bình nhận định, ngôn ngữ thơ của Trần Dần táo bạo, không tránh né. Những dữ liệu sống trong thơ ông luôn ngồn ngộn, hừng hực, đầy ắp.
Ông từng mạnh mẽ phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một tập thơ nhỏ bé, nhạt nhẽo, sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ.
Chính ông cũng là người ra tuyên ngôn, phải chôn Thơ Mới, phải cho giai đoạn ba mươi hai đến bốn mươi lăm đó của thế kỷ hai mươi, vào quá khứ. Ông cho rằng, Thơ Mới chỉ là một tiến trình giúp thi ca Việt Nam phát triển sang một giai đoạn khác.
Ai mửa sao đêm đầy các ngõ?
Để hầm hập bồ hôi cơn sốt phố về đêm.
(Một Ngày Như Lệ Thường)
******
Năm một ngàn chín trăm năm mươi bảy, ông cho ra đời tập thơ đầu tiên, viết theo lối trường ca, gồm mười ba chương, với tựa đề: Đi! Đây Việt Bắc!
Chương thứ mười ba có tên là Hãy Đi Mãi, đã từng được in trên báo Văn. Ở lần xuất bản lại, sau hơn ba mươi năm cấm đoán, một ngàn chín trăm chín mươi, tập thơ buộc đổi tên thành Bài Thơ Việt Bắc, và phía thẩm quyền cắt bỏ chương thứ mười ba này.
Đó là một chương thơ rất hay.
Hãy Đi Mãi
Khi trái đất còn đeo bom
trước ngực
thắt lưng
còn lựu đạn, bao xe
Khi bạo lực còn khua
môi mõm mốc xì
khẩu đại bác mỏi đừ
vẫn sủa
Khi bóng tối
còn đau như máy chém
những lời ca đứt cổ
bị bêu đầu
Lũ đao phủ tập trung
hình cụ
mặt trời lên
phải mọc giữa rừng gươm
Khi thế kỷ còn rung
chuông lừa bịp
Những canh gà
báo trượt rạng đông
Con rắn lưỡi cắn người như cắn ngóe
Khi xe tăng
chửa đi cấy đi cày
như
một lũ tội nhân cần cải tạo
Khi
con thò lò ngày đêm hai mặt đói meo
còn quay tít
trên kiếp người hạ giá
Những khi ấy
sẵn sàng
nổi giận
loài người
còn tổ chức nhau đi
Hãy đi mãi như người
cộng sản
có thể mỏi mọi điều
không mỏi tấn công
Phải làm lại chúng ta, tất cả
không tha
để đừng có một ai lần lữa
khi nào
chân lý gọi tên đi
Hãy đi mãi
dù mưa băm nát mặt
Sương rơi, hơi đạn xưa
đau đầu
Dù bốn mùa
nhung nhức nắng mưa
mùa bão tuyết thế chân
mùa gió độc
Hãy đi mãi
dù mưa đông phục kích
hay
lửa hè đánh trộm sau lưng
Dù những đêm
buồn như sa mạc hoang vu
Đoàn du mục tủi thân
vùi bãi cát
Dù
những ngày, mũi kiếm heo may
đi hành hạ
những tâm tư trằn trọc
Hãy đi mãi
dù trên biển cả
sống như người
vật vã khắp đại dương
Dù những con tàu
bỗng nhớ bến bình yên
còi rúc mãi những tiếng kêu rùng rợn
Hãy đi mãi
dù khi cần thiết
người ta cần đói khát
vượt bình xa
Ta bỗng có thể nhịn lâu
hơn cả lạc đà
đi
đến tận những kinh thành no ấm
Hãy đi mãi
dù có phen chót ngã
Hãy bó đôi chân lầm lỡ
mà đi
Hãy tin chắc
rồi ta
xứng đáng
một vòng hoa đỏ nhất
phủ quan tài
Tôi chửa có khi nào quên táo bạo
chửa khi nào quên hát
quên đau
Tôi yêu đất mẹ đây
có cỏ hoa làm chứng
Tôi yêu chủ nghĩa này
cờ đỏ cãi cho tôi
Nhưng
chẳng thể rúc kèn cũ rích
vác loa mồm kêu
“hiện tại rất thiên đường”!
Không!
thiên đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận triệu thiên đường
Đi mãi
chẳng bao giờ thỏa
Tôi có thể mắc nhiều
tội lỗi
chẳng bao giờ quá ngu đi
mắc tội: nằm!
Han rỉ
khác gì cái chết?
Chết con tim chẳng còn dám đau thương
Chết khối óc
chẳng còn dám nghĩ!
Nếu
tôi chửa đến ngày thổ huyết
phổi tôi còn xâu xé mãi
lời thơ
Tôi có thể mặc thây
ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ tiếng chửi:
“sống không sáng tạo!”
Nếu tôi bị gió sương
đầu độc
một hôm nào ngã xuống
giữa đường đi
tôi sẽ ngã
như người lính trận
hai bàn tay chết cứng
vẫn ôm cờ
Nếu vầng nhật
thui tôi làm bụi
nắng oan khiên đốt lại
làm tro
Bụi tôi sẽ
cùng ta
vẫn sống
vẫn chia nhau gió bấc
xẻ mưa phùn
Nếu dĩ vãng đè trên lưng
hiện tại
nặng nề
hàng tạ đắng cay
tôi sẽ nổ tung
ngàn kho đạn tiếng kêu
tan xác pháo
mọi cái gì cũ rích
Nếu
hàm răng chuột nhắt của gia đình
gậm nhấm
cả tình yêu cùng dự định
tôi sẽ biến thân tôi thành
thép nguội
làm thất bại
mọi thứ rũa đã quen rũa người
tròn trặn quá hòn bi
ở trong tôi
nếu còn sức mạnh gì
chính là sức những ai
nghèo khổ nhất
những ai
lao lực nhất
địa cầu ta
Tôi vẫn nâng chiếc đầu lâu
nặng nề sáng tạo
như
nâng một viễn vọng đài
trên cuộc sống hàng ngày
nhí nhách
Tôi vẫn cháy
ngọn hải đăng con mắt
ở trong biển sống
từng đêm
Tôi vẫn đóng những câu thơ
như người thợ
đóng tàu
chở khách
đi về phía trước
nói
loài người
đã biết sống chung nhau
Nói
tất cả
chẳng còn ai bần tiện
chẳng còn lo
cơm áo
nợ nần.
******
Một tuyên ngôn, được lập đi lập lại rất nhiều lần trong thơ của Trần Dần: Tôi có thể mặc thây / ngàn tiếng chửi tục tằn / trừ tiếng chửi: / “sống không sáng tạo!”.
Có nhà phân tích cho rằng, tất cả những kêu đòi sáng tạo ấy là những kêu đòi của chuyện văn chương, cụ thể, là chôn vùi đi lối làm Thơ Mới, thay vào đó là những dòng thơ cách tân, những dòng thơ thể nghiệm, đưa thơ về phía chân trời xa, nơi rộng mở của những tự do và bay bổng.
Không sai. Nhưng lẽ nào, sau những vắt óc, sau những huyết lệ, sau những đêm không ngủ đến bạc đầu, sau những đấu tranh đến mất mạng, đòi quyền cho thơ, cho người thơ, được cất lời, lên tiếng – lẽ nào – chỉ có bấy nhiêu? Chỉ là thay đổi thơ, thay đổi thi pháp cho thơ?
Hẳn, không chỉ thế. Hẳn, đó còn là sự đòi hỏi phải thay đổi những thói quen, những lối nghĩ rập khuôn đang hằng hà sa số vây chung quanh. Rập khuôn ấy đang thống trị và chi phối toàn bộ cuộc sống. Những tư tưởng, những hành vi, chỉ có thế và chỉ được như thế, không hơn, không kém.
Như những người máy. Như những cỗ người biết đi, biết ngồi, biết khóc, biết cười.
Cả phải biết yêu, phải biết sống, theo mệnh lệnh!
******
Thơ, với tôi, là những chắt lọc. Thơ, với tôi, là những tinh túy của xương óc một con người – người thơ.
Tôi thích lắm những dòng thơ, mà theo tôi, như thế, mới thiệt xứng đáng để gọi là thơ, như: Khi thế kỷ còn rung / chuông lừa bịp / Những canh gà / báo trượt rạng đông / Con rắn lưỡi cắn người như cắn ngóe.
Sau một loạt các khổ thơ được mở đầu bằng các trạng ngữ chỉ thời gian, chỉ hoàn cảnh, chỉ ra những không gian bức bối, chỉ ra những hiện thực rợn ghê, là lời kêu gọi – hãy đi mãi.
Đi mãi, không dừng lại, không bằng lòng với những cái vừa tìm ra, vừa phát hiện. Đi, để mỗi ngày một mở rộng tầm nhìn. Đừng cam tâm bó hẹp, đừng tự mình giam hãm, cầm tù, đừng vừa lòng với cái thấy của ta, cái thấy của ếch trong lòng giếng, trời xanh là miệng giếng, và mình là chúa tể của chính mình, của cái bóng mình, y khuôn, lập lại.
******
Sử dụng rất hay, rất giỏi dạng thức nếu – thì, Trần Dần đã làm cho các lập luận của bài thơ trở thành một khối kim cương chắc chắn, khó lòng phá vỡ. Các câu thơ, đọc lên, rõ ràng, liền lạc, như một đứng dậy, lớn lao, thách thức.
Thách thức chính mình. Thách thức những nếp nghĩ như những nếp nhăn trong óc, đang mỗi ngày một già nua, xẹp xuống, mục cỗi, tóp teo: Khi / con thò lò ngày đêm hai mặt đói meo / còn quay tít / trên kiếp người hạ giá / Những khi ấy / sẵn sàng / nổi giận / loài người / còn tổ chức nhau đi.
Kiếp người còn bị hạ giá, thì, loài người, còn tổ chức nhau đi!
******
Đọc thơ Trần Dần, nhiều người cho rằng, ông không chỉ mới trong thi pháp của thơ, mà ông còn mới cả trong tư tưởng, tinh thần và triết lý.
Tôi sẽ không bình luận gì thêm. Có điều, Trần Dần nhìn khác, Trần Dần nghĩ khác, theo tôi, thì có thể. Nhưng mới trong tư tưởng và triết lý ư? Có đúng thế không? Hay chúng ta, thuộc đời sau, cũng chỉ toàn lập lại thôi, những tinh thần, những lý luận của các triết gia, đã xuất hiện từ rất nhiều thế kỷ trước.
Chương mười ba của trường ca Đi! Đây Việt Bắc! của Trần Dần mà tôi vừa viết ra ở trên là một minh chứng. Có tư tưởng nào mới đâu? Có triết lý nào vừa được ra đời đâu? Hay chỉ đơn giản là Trần Dần đang nói sự thực, như ông từng ví von mình, là người chụp hình cuộc sống bằng chữ.
******
Ông bàn về thơ như sau, làm thơ là làm ra chữ, tự chữ, sẽ làm ra nghĩa. Cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Nếu làm thơ mà làm nghĩa trước, rồi mới mượn chữ để diễn đạt nghĩa, thì nghĩa sẽ hẹp. Cái chưa biết là cái thăm thẳm. Cái chưa biết mới là cái mới.
Tôi sẽ không bàn đến đúng sai, nhận định trên. Mọi kẻ làm thơ trên đời này, đều có quyền phát biểu về thơ. Tự do ấy, cần được tôn trọng. Các áp đặt đều không khác gì, việc mặc đồng phục cho thơ.
******
Trần Dần thì tự nhận, thơ ông là một cơn ác mộng.
Còn dịch giả Dương Tường thì đánh giá về Trần Dần như sau, Trần Dần là người tận tụy với thơ hiếm có trong lịch sử thi ca hiện đại Việt Nam và có thể coi là người cách tân thơ số một. Một người luôn đòi hỏi người làm thơ, trước hết, phải có chữ ký riêng của mình. Ông ấy luôn ham muốn vượt qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, ở bên ngoài mình đã đành, lại còn liên tục tự làm mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ, chẳng hạn.
Bỏ qua lối viết xuống hàng quá nhiều khiến thơ trở nên kiểu cách theo lối rườm rà, trình diễn, thì việc đánh giá, nhìn nhận tài năng của Trần Dần như Dương Tường ở trên, theo tôi, là chính xác và khá đầy đủ.
Cá nhân tôi, Trần Dần, giữa một cuộc đời triền miên trong đau khổ, khốn đốn, cô đơn – ông là một tài hoa, lãng mạn, kiên định, quyết liệt, đầy khí tiết với những vần thơ, những dòng văn xuôi độc đáo, mới lạ, trong vai trò tiên phuông đổi mới – nên tạo được ấn tượng trong lòng bạn đọc, trong lòng những người từng biết ông, hoặc, nghe nói về ông.
Trần Dần – một tư chất thông minh, một tài thơ hiếm có.
Kết thúc, tôi xin viết ra đây, một đoạn văn của Trần Dần trong cuốn Trần Dần Ghi 1954 – 1960, lấy từ bài viết của bà Thụy Khuê, một phê bình gia nổi tiếng tại hải ngoại. Đọc đoạn trích này, tôi bật cười, và mong, các bạn cũng có một nụ cười sảng khoái, vui vẻ, nhẹ nhàng, như tôi vậy, sau khi đã đi qua quá chừng những nhức đầu nhức óc của chuyện văn chương:
“Tôi muốn tả những người chiến sĩ. Người rất già và người rất trẻ. Người bần cố và người con địa chủ. Người con tư sản và người công nhân. Người học sinh và người không biết chữ. Người đã làm sư và người đi ăn cướp. Người đi buôn và người đã bị buôn. Người đã lừa lọc và người đã bị lừa lọc. […] Người anh hùng và người dút dát. Người lấy súng bắn địch và người lại lấy súng tự thương. […] Người thuần người ngổ ngáo. Người chỉ biết phục tùng, người hay cãi bướng. Và đa số là ngại học tập, ngại nghe đả thông. Ngại nghe cán bộ nói nhiều. Ngại bị ‘nắm tư tưởng’. Nắm, nắm con cặc.”
Ông khiến chúng ta cười, nhưng lúc ấy, lúc làm những vần thơ này, lúc viết những dòng chữ này, ắt hẳn, ông đã phải rơi lệ:
Tôi khóc những chân trời không có người bay
Lại khóc những người bay không có chân trời.
Sài Gòn 22.01.2024
Phạm Hiền Mây
Wonderful beat I wish to apprentice while you amend your web site how could i subscribe for a blog web site The account aided me a acceptable deal I had been a little bit acquainted of this your broadcast provided bright clear idea