Home Blog Page 1350

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 8)

0
Kiều Duy Vĩnh

LTS – Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục công giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo.”



Kỳ 8

 

Lại quay trở về với câu chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không ăn.

Tôi xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn bữa nào ngoài hai bữa cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm. Ở trong Mein Kamp (Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi) Hitler viết: “Cái đói nó theo tôi như một cái bóng…” tôi xin thêm: Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.

Tối hôm đó, đã hơn chín giờ mà tôi không thể nào ngủ được, cứ trở mình trằn trọc.

Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung Ðồng Thái Bình, nằm cạnh tôi khỏi khẽ:

“Ðói không ngủ được à.”

“Vâng, đói lắm không ngủ được.”

“Vậy, có lẽ mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ đứng ra chia cơm để Vĩnh ăn nhé.”

“Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó thì rất nhẹ. Tôi cân nặng 49kg.”

Tôi gầy đến “lõ đít” ra. Tôi xin phép được dùng từ này, vì đúng là tôi gầy đến như vậy. Những lúc ngồi chơi, hoặc luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống chân đều trơ xương ra khẳng khiu khô khắc.

Trước đó ít hôm ra khênh cơm vào, có một anh bạn ở nhà bếp nhìn thấy tôi ra hiệu bằng cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má, chúm cái miệng lại ra cái điều là gầy quá má hóp, vêu miệng.

Tôi cũng biết vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, hai bàn tay xoa vào nhau như sự cọ xát của hai thanh củi khô, không có cái mềm mại của da thịt. Ở Cổng Trời này không có gương để soi, xem mặt mũi hình hài của mình nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một cái tông đơ, cắt cả tóc lẫn râu thế thôi không có gương lược, dao kéo gì. Có lần muốn nhìn cái bản mặt mình, tôi đã bắt chước Nguyệễn Tuân đái một bãi xuống đất rồi soi mặt mình vào đó. Nào có thấy rõ chó gì đâu mà cái nhà ông Nguyệễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại xui dại anh em thôi.

Vì gầy thế, nên hai cái mông teo lại, cái xương cùng nó thò dài ra, khi đi ngoài, chùi nó chạm đâm vào tay mình.

Chính lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy hết cái từ gầy lõ đít.

Mười năm tù, lúc nào tôi cũng ước ao có một bữa no, thèm muốn làm sao mà được ngồi trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và có đầy một bát muối để ăn cho mặn. Cả muối tôi cũng thèm nhạt. Chỉ có một ước muốn đơn sơ ấy, thế mà suốt trong 10 năm tù lần thứ nhất ngay cả ở các trại dưới tôi cũng không đạt được nói chi nữa là ở trại Cổng Trời này.

Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đã đi qua và sống ở đó đều đói và có thể chết đói được.

Khi còn ở trại Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải xay lúa giã gạo ở khu biệt lập kiên giam này, tôi nhớ tới phim “Samson và Ðalila” anh chàng Samson mù quay cối xay. Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn thấy gì ở ngoài cả. Chế độ ở kiên giam Bất Bạt cũng học đòi cách quản lý và đối xử với tù của Cổng Trời, nhưng mà là học trò hạng bét.

“Cũng tù hình sự đem cơm đến để đấy rồi chạy.”

“Cũng không được ra khỏi khu cấm!”

Nhưng vẫn còn được viết thư về nhà và còn được gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà đi thăm nuôi.

Chứ ở trại Cổng Trời Cắn Tỷ không một ai được thăm nuôi. Không một ai trong suốt thời gian bảy năm tôi ở đó.

Khi đói, tôi kêu. Tôi kêu đến nỗi quản giáo phụ trách giáo dục tên là Kích người liên khu năm Bình Ðịnh đi tua nghe thấy, gọi tôi ra ngoài lục vấn, lên lớp và đe dọa tôi:

“Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không. Cẩn thận. Không có lại đi suốt đấy.”

“Thưa ông, tôi đói thật, ông ạ. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá cũng phát ra thành tiếng. Có thế thôi.”

“Thứ tôi mà đi kích động hở ông. Vả lại tôi là một sĩ quan chiến đấu, võ biền. Ông xét xem, tôi sẽ kích động được ai trong số những tu sĩ ở cùng với tôi trong buồng. Tôi nói rất thật, để chứng minh điều đó ông làm ơn xúc cho tôi một bát cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước mặt ông cho ông xem (chả là chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà).”

Chừng quản giáo Kích cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa cho tôi trở về buồng.

Trên đường về đi qua giàn su su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi vốn cao, nên với tay vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về ăn sống.

Trần Liệu bảo tôi: “Ðược ra khỏi buồng, bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn hết, chỉ trừ khi vồ nó mà nó kêu ‘Ối giời ôi’ thì chịu không ăn mà thôi.”

Hắn ăn giun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa…

Chúng tôi cười với nhau.

Trần Liệu cũng đói lắm? Hắn to con gần bằng tôi và vốn là đồ tể Quỳnh Lưu Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh “me” (bê non).

Nhưng tôi cũng phải phục hắn; thế mà hắn cũng chịu được hai ngày liền theo các đấng bậc tu sĩ đấy.

Hắn là con chiên cực kỳ ngoan đạo. Ông Chính bảo tôi: “Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Có gì tôi sẽ nói với anh em trong phòng để họ cảm thông trường hợp của Vĩnh.”

Tu sĩ Chính là người có uy tín nhất ở trong số tu sĩ còn lại đó.

Tôi im lặng. Ðối với ông, tôi có một món nợ lớn lắm! Lớn lắm mà không bao giờ có thể trả được.

Tôi vốn có duyên nợ nhiều với đất Thái Bình và ông, ông là người sinh ra ở đó và tu ở đó. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói chuyện với tôi lắm.

Tôi ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở khu A Cổng Trời, ở cho đến lúc ông bị gọi đi chết.

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 7)

0
Kiều Duy Vĩnh

LTS – Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục công giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo.”

 

Kỳ 7

 

Ăn xong, rồi ngồi chơi nhìn nhau. Im lặng không nói chuyện, không đi lại, thế là cầu kinh đấy.

Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ lại cấm ngồi bắt nằm mãi sao.

Ban Giam Thị uất lắm!

Sau chuyện tu sĩ Ðỗ Bá Lang, chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.

Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này thì Nguyễn Quang Sáng phải chịu thua.

“Ai cho các anh ăn?”

“Chúng tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả.”

“Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh ăn. Ðúng lắm, nhưng đó là chúng tôi đây chứ không có chúa nào hết. Không có con mẹ Maria, thằng Jê su nào cả. Biết chưa?”

(Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì).

Và đến bữa ăn. Quản giáo đứng đó. Mọi lần thì cửa mở, chúng tôi bê cơm vào trong phòng. Ðóng cửa lại. Chúng tôi chia nhỏ từng xuất một và ăn. Không có sự hiện diện của ai cả.

Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.

Tất cả, cả tôi, không ai phải bảo ai, không chia cơm ra ăn. Ðứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa lại đi về.

Ðến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh đều chia vào hai cái thùng gỗ to, chứ không chia thành một phần như ở xà lim.

Buổi chiều, đích thân chánh giám thị xuống, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng. Mặt tái vì giận dữ. Nhưng làm thế nào mà bắt họ ăn cho được?

Không có khí thế hừng hực đấu tranh như những người Cộng Sản ở Sơn La, Côn Ðảo tuyệt thực, không có hô khẩu hiệu, tất cả đều lặng lẽ ngồi im.

Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.

Họ không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu sách điều gì.

Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn vào mặt ông ta cả. Tất cả đều quay mặt đi chỗ khác.

Giám thị Sáng đành phải ra về.

Ðêm đến: Tôi đói không thể nào ngủ được. Ðã một ngày trôi qua, và hai bữa không ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.

Chỉ có khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi lặng lẽ khai ốm và báo cháo, vì tôi nghĩ: Ðói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.

Dạ dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn và nghiền nát tất cả mọi thứ mà đối với người khác bình thường, cùng tù với tôi cũng không kham nổi.

Sắn sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn được, khoai hà chỉ có ngỗng mới ăn, tôi cũng ăn được khoai sọ tôi ăn cả vỏ, dong riềng ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết.

Ra suối tắm, quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết.

Chỉ gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi.

Sắn ăn say, ngày nào mà tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi chính có lẽ do say sắn triền miên mà tôi vẫn còn sống đến hôm nay.

Chả là rét quá, tôi bị sưng phổi. Cứ thấy ho, sốt, rồi tôi không dám nói láo cứ cúi xuống ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách…

Ở Cổng Trời không phải khai ốm, vì có còn khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết.

Quản giáo trực thấy tôi nằm ốm, hỏi làm sao. Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Ðể đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi khỏi. Mọi người: đều coi chuyện đó là chuyện thường tình.

Mãi đến khi về, năm 1970 tôi đi khám ở bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi là tôi bị sưng phổi bao giờ và ở đâu hút cho.

Tôi trả lời là quên mất thời gian và chưa ai hút ra bao giờ. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.

Qua chuyện trên, tôi đi đến kết luận là Acide Cyavidrique nghĩ thế, theo đầu óc ngu dốt của tôi thôi.

Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh khu. Cấm liên lạc nhưng khi trả thùng cơm canh, thì đem đến một cái sân chung để nhà bếp tiện lên lấy. Có lần khu C: họ được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Chả hiểu sao cả khu say, và chết đâu mất năm người.

Sáng ra, quản giáo trực vào thấy chết vì say sắn bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn lại, cấm không cho ăn, và đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm.

Hôm ấy đến lượt tôi bưng thùng ra trả. Tôi thủ ngay gối một thùng sắn luộc rồi giấu vào bụng đem về buồng ăn.

Cái vị tu sĩ bảo tôi: Họ ăn chết hàng loạt kia kìa, lấy về làm gì?

Tôi bảo: Họ có nhiều họ ăn mới chết! Chứ mình cứ củ một ăn, chết thế nào được. Và tôi ăn. Ăn củ một, thấy đắng quá thì thôi. Hơi say một chút chẳng sao cả. Và những chất say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và có thêm một hiện tượng là hai bên quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ hơn.

Ðiều này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy!

12 kg cả gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76 nặng 78kg và ba mươi tuổi thì các vị chắc cũng hiểu cho được.

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 6)

0
Kiều Duy Vĩnh

LTS – Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7/7/2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục Công Giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo.”

 

Kỳ 6

Kiều Duy Vĩnh tác giả cuộc tuyệt thực ở cổng trời.

1. Cuộc tuyệt thực

Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ.

Thứ nhất là các đấng bậc trong giáo hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim), rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.

Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.

Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người Công Giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ, còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng, Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyện Công “Cửa” tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc, Nam Ðàn…

Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.

Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.

Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Ðang.

Khi ở khu A còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại.

Tôi được chuyển sang khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật người Nam Hà.

Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, được đi lao động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư một lần và được phép nhận thư.

Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi lên với địa chỉ:

Công trường 75A Hà Nội C65 HE.

Mọi người đều ngạc nhiên, cả tôi nữa.

Lúc đó nhà tôi ở số nhà 7 phố Thi Sách gần ngay đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội.

Tính từ khi lên Cổng Trời, đã được hơn 3 năm có lẽ tôi chưa được viết thư về nhà lần nào, thế mà tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết thơ cho tôi và mẹ tôi có biết là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang không?

Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất (1970) tôi về gặp lại mẹ tôi, tôi mới rõ. Thì ra sau khi tôi được chuyển lên Cổng Trời ố 1960 – thế là mất hết tin tức về tôi. Tất nhiên là mẹ tôi không chịu để mất. Mẹ tôi lên trại cũ ở Bất Bạt Sơn Tây để hỏi. Chánh giám thị trại là thiếu tá Thanh trả lời là ông ta không rõ!

Quay về Hà Nội mẹ tôi đến Bộ Công An ở phố Trần Bình Trọng hỏi. Họ không cho vào gặp. Nhưng từ nhà tôi ở chợ hôm ra đến hồ Thiền Quang chưa đến 1km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi dắt cháu đi chơi là mẹ tôi lại tạt vào quấy rầy họ. Ðến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.

Mẹ tôi cứ đi. Kiên trì dắt cháu đi hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ đành phải trả lời. Nhưng cũng mất 1 quãng thời gian là hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ đó: Công Trường 75A Hà Nội.

Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này. Họ bảo họ cũng không biết

Mẹ tôi đời nào chịu.

Và cuối cùng họ đành phải trả lời là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang.

Thế là mẹ tôi đi Hà Giang.

Ði với 2 bàn tay trắng: Không có mảnh giấy đi tiếp tế cho tù.

Quy định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố thì bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu mẹ tôi vẫn cứ đi.

Nhưng lên được đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì bị công an theo dõi và bắt quay về Hà Nội.

Mẹ tôi đành viết thơ cho tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư.

Thế ra mẹ tôi vẫn còn sống và tôi, tôi vẫn còn sống.

Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy họ, mà trên Bộ Công An chưa bật đèn xanh cho ban giám thị trại xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời này.

Ðã có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về báo tin là tôi đã chết. Nhưng mẹ tôi khăng khăng không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu sống tôi.

Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như cha Vinh, cha Quế, tu sĩ Ðỗ Bá Lang, tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng bậc ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc thánh đó thấy rằng tôi là một phần tử tiến bộ trong số này.

Này nhé: Tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay trước lễ Phục Sinh. Không cần nghi lễ Giáng Sinh, thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám Thị rồi còn gì nữa.

Còn với các đấng bậc kia.

Cấm cầu kinh, cứ cầu

Cấm làm dấu thánh trước khi ăn. Cứ làm. Ngày lễ Giáng Sinh cứ nghỉ không chịu đi làm.

Và nhất là chuyện tôi cứ ăn không chịu tuyệt thực cùng các vị đó khi có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.

Câu chuyện tuyệt thực xảy ra như sau: “…Ðây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt.” Tịch thu thì được. Còn cấm thì hơi khó hơn, nếu không nói là không cấm được.

Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh?

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 5)

0
Kiều Duy Vĩnh 

LTS – Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục Công Giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo.”

 

Kỳ 5

 

Nhưng mà sống mãi làm sao cho được nỗi với chế độ hà khắc giết người đó. Tu sĩ Lung phải chết. Người ta đóng các cửa sổ lại để không ai nhìn thấy chiếc chiếu gói xác khênh đi qua.

Mỗi lần chôn, có hai tù hình sự ở trại ngoài vào, đem theo một chiếc chiếu, đòn khiêng và dây thừng. Thường hay chôn vào buổi chiều tà. Chôn xong họ được bồi dưỡng một cân đường, hai cân gạo nếp. Cha Quế và Cha Vinh chết, thì đâu như phần chôn còn được thêm một cân lòng trâu.

Thế là với chúng tôi, Tu sĩ Ðỗ Bá Lung xứ Ngọc Ðông Hưng Yên không bao giờ về nữa. Người đã chết, và coi như mọi chuyện đã hết. Nhưng câu chuyện lại chưa chấm dứt ở đây ở lúc đem Tu sĩ Lung đi chôn.

Ở đoạn trên, chúng ta đã biết là Tu sĩ Ðỗ Bá Lung đã vào Hầm Chết ba tháng mà vẫn chưa chết. Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng rất sốt ruột, luôn luôn hỏi anh Nguyễn Hữu Ðang, người cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm, người độc nhất được đưa cơm vào xà lim:

“Thế nào, nó chết chưa? Cái thằng Lung ấy.”

“Thưa ông, anh ấy chưa chết.”

Nguyễn Hữu Ðang có cái đáng quý là anh không gọi ai ở trong tù bằng thằng cả. Trong khi bọn trật tự viên hình sự luôn luôn nói theo giọng quan thầy, ông chủ chúng đều gọi tù nhân bằng thằng này thằng nọ.

Tôi có một anh bạn rất thân tên là Sâm. Khi hỏi cung tôi, cán bộ công an hỏi:

“Anh thấy thằng Sâm nó thế nào?”

“Thưa ông, tôi không quen thằng Sâm nào cả?”

“Anh láo, anh chối hả? Thằng Sâm mà anh không quen thì anh còn quen ai nữa?”

“Thưa ông, nếu ông nói về anh Ðỗ Văn Sâm học cùng với tôi ở trường Chu Văn An thì tôi quen rất thân. Nhưng xin ông nhớ cho là anh ấy chưa bị bắt, ông không nên gọi thằng này thằng nọ như thế.”

Tôi chỉ dám trả lời lại có thế thôi, nhưng còn anh bạn Phan Hữu Văn, thì anh ấy trả lời hay hơn tôi nhiều:

“Thưa ông, tôi tưởng ông nói tới thằng Vĩnh lưu manh, ma cà bông ở cùng trại 13 với tôi thì thật tình tôi không bao giờ biết tới quân ăn cắp ấy cả. Nhưng tôi có quen ông Kiều Duy Vĩnh, học sinh trường Chu Văn An cũ, nguyên đại úy tiểu khu trưởng Ninh Giang. Chúng tôi không dùng những từ thằng này thằng nọ mày tao mi tớ bao giờ. Chỉ có bọn vô học, vô văn hóa, vô giáo dục thì mới dùng những từ đó mà thôi.”

Tên công an tím mặt lại, đuổi về trại đi cùm.

Lại nói về Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, hết tháng thứ ba ông chưa chết, nhưng sang đến tháng thứ tư vào dịp gần đến lễ Thiên Chúa Giáng Sinh ở Cổng Trời đôi lúc không độ, nước đóng băng thì tu sĩ Lung chết.

Nguyễn Hữu Ðang vội vã bá cáo với trực trại là Tu sĩ Lung đã chết.

Ngay buổi chiều hôm đó, mọi cửa sổ nhà giam đều bị đóng kín lại, có hai người tù hình sự ở trại ngoài đem đòn, dây thừng và một chiếc chiếu vào khênh đi chôn. Họ chôn xong, về lĩnh mỗi người một cân đường và một cân gạo nếp. Ðâu như những lần chôn cất cha Vinh cha Quế họ được thêm mỗi người một ký lòng trâu.

Ðối với chúng tôi thì là Tu sĩ Ðỗ Bá Lung đã chết, đã đem chôn. Người chết hết chuyện. Thế nhưng trường hợp của Tu sĩ Lung lại không hết chuyện. Thế mới phiền.

Cũng chừng độ ba tháng sau, một ngày nắng vàng rực rỡ, trời ấm áp dễ chịu, người ta thấy, lù lù một tu sĩ Ðỗ Bá Lung chống gậy xuất hiện ở trại Cổng Trời.

Thế là náo loạn cả lên. Từ Ban Giám thị trại, đến lính coi tù, đến tù nhân đều tới lui, bàn ra tán vào, rì rầm nhớn nhác. Cửa sổ các trại lại đóng như khi ông chết mang đi chôn. Họ đưa ông vào ở tạm một cái buồng con chỗ cán bộ giáo dục “lục vấn” người tù. Chứ chả lẽ lại đưa ông vào Hầm Chết lần nữa!

Hóa ra là hồi ba tháng trước ông chưa chết hẳn, hoặc là ông đã chết mà một phép lạ đã làm ông sống lại. Câu chuyện xảy ra như sau:

Sắp đến chỗ chôn thì trời đổ mưa to, hai người tù hình sự tránh mưa, để ông nằm đó chạy vào trú mưa ở nhà một người Mèo, họ vào đấy uống rượu chờ tạnh mưa. Mưa hồi lâu, và rượu hơi ngon nên trời chập choạng tối họ mới lần xuống, thì không thấy bó chiếu đâu nữa.

Họ nghĩ có lẽ thú dữ, hoặc chó sói đã tha cái xác ấy đi rồi. Có sao đâu, khỏi phải chôn. Họ về và cũng chả có ai hỏi là họ chôn xong chưa? Mọi lần vẫn thế. Mặc nhiên coi như đã chôn xong.

Hóa ra là khi họ đang uống rượu thì mưa to hơn lại có sấm chớp nữa làm Tu sĩ Ðỗ Bá Lung tỉnh lại, dây buộc thì lỏng lẻo, ông chui ra khỏi cái chiếu, lấy cái chiếu che mưa lần vào cái chuồng trâu gần đó. Hơi ấm của trâu, của phân trâu làm ông hồi tỉnh lại và sáng hôm sau, chủ nhà người Mèo nấu cháo ngô cho ông ăn và nuôi ông. Thế là ông sống lại.

Ông sống lại một cách khỏe mạnh. Người Mèo cho ông ăn no so với sáu ký gạo cộng với sắn trong một tháng thì cháo ngô đã làm ông hồi phục nhanh chóng.

Nhưng làm sao mà sống mãi ở nhà họ được? Mà trốn trại thì trốn về đâu? Và làm sao mà trốn thoát được. Giấy tờ không, tiền không, với 100km đường rừng, 300km đường bộ, ông đi làm sao được. Chỉ có một con đường độc nhất xuống núi thì bị kiểm soát thật ngặt nghèo, ông làm sao đi thoát. Vậy chi bằng quay trở lại trại Cổng Trời là hơn cả.

Thế là ông quay về trại sáng hôm đó.

Nhưng phiền là ban giám thị trại đã báo cáo về bộ cái thành tích tiêu diệt tên phản động đội lốt thầy tu Ðỗ Bá Lung rồi, và trên bộ đã gạch xóa tên Lung trong danh sách tù ở Cổng Trời rồi. Làm sao bây giờ? Phải có phương án nào chứ.

Hai hôm sau, có một xe com-măng-ca của bộ lên trại Cổng Trời. Ông Ðỗ Bá Lung lên chiếc xe đó. Ông đi đâu? Và sẽ ra sao? Cho đến giờ chúng tôi cũng không biết gì hơn về Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, người đã chết và đã sống lại đó.

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 3)

0
Kiều Duy Vĩnh

 

LTS: Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục Công Giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo”.

 

Kỳ 3

 

Tôi ít lưu tâm đến vấn đề tôn giáo. Cũng như tu sĩ Ðinh Hiền Lương, tu sĩ Lung cứ lững thững đi lại, chậm rãi, lặng lẽ tới lui, ông có nhiều lời hơn bậc tu ép xác dòng Châu Sơn một chút, nghĩa là đôi lúc ông có nói với tôi về Phố Nối và con đường 39 về xứ Ngọc Ðồng nơi ông tu.

Vùng của ông, tôi có hành quân qua nên cũng có đôi chút kỷ niệm, vả lại trời cũng phú cho tôi một trí nhớ tốt, cho đến tận bây giờ, sau gần 50 năm trôi qua, mà tôi vẫn nhớ rõ tên; tên chữ cũng như tên nôm của các làng vùng đó như: Duyên Trang Duyên tục là Tuộc, Lác; Hải An là Hối; Phù Lưu là Ðọ (ngã ba Ðọ); Ðống Năm là Ðông Các; Thượng Tầm là Tìm; Cổ Hội là Gọ (cầu Gọ); Cầu Sắt là Nha Xuyên… Cho nên tôi và ông thỉnh thoảng có ôn lại các địa danh Lực Ðiền, Trương Xá, Kim Ðộng, dốc Lã, rồi đến nhãn Hưng Yên, thang cuốn Phố Hiến, dưa hấu Ðình Cao, Phù Cừ và cả về việc chỉ huy sở của khu chiến chiếm Chủng viện Hưng Yên.

Về ông tôi biết hời hợt thế thôi. Nhưng có một điều ông như thế mà bị đầy lên đây vào khu 2A này thì chắc ở trong còn tiềm ẩn một điều gì sâu sắc lắm, cao đạo lắm, quyết liệt lắm mà tôi chưa hiểu nổi đấy thôi.

Như trên tôi đã nói: Những người ở trong nhà mồ cứ lần lượt bị gọi đi. Luôn luôn lặng lẽ và đột ngột. Nhưng thời gian xảy ra câu chuyện này hơi có sự thay đổi:

Người giám thị cũ của trại giam tên là Nhân chuyển về làm cục phó Cục Quản Lý Trại Giam vì thành tích xuất sắc của mình, thay vào đó là giám thị Nguyễn Quang Sáng, trẻ hơn, người Nam Hà. Nói qua một chút về giám thị Nhân. Trước khi lên đây, giám thị Nhân coi trại Yên Bái, trại này cũng vào hạn khá đặc biệt, khi chưa có Cổng Trời. Năm 1954, trại này nhốt tướng De Castries người chỉ huy Ðiện Biên Phủ. Sau đó là những địa chủ cường hào đại gian đại ác có nợ máu, những tên phản động nguy hiểm từ trong Nam ra, từ khu Tư lên, tập trung ở đó, rồi sau đó chọn lọc đem lên Cổng Trời.

Giám thị Nhân người Nghệ An, trông gầy (tôi có được gọi lên gặp hai lần) và khô, mặt tai tái lạnh lùng, đúng típ người coi trại giam, rét cắt ruột vẫn đi đôi dép lốp cao su, mà ngón chân út của bàn chân cáu ghét nứt nẻ bao giờ cũng thò ra ngoài quai kẹp lấy nó để đi cho chắc. Rất đúng tác phong quần chúng xuất thân từ nông dân lao động:

Những bàn chân từ than bụi lầy bùn.

Ðã bước dưới mặt trời cách mạng…

Những bàn chân đã vùng dậy đập đầu

Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp

(Tố Hữu)

Ðúng thế, những bàn chân ấy đã giẫm lên xác không biết bao nhiêu người ở các trại giam khác và bây giờ đây lại tiếp tục làm nhiệm vụ của nó: Giẫm lên xác những kẻ ở nhà mồ Cổng Trời này.

Có điều giám thị Nhân giẫm lên xác một cách nhẹ nhàng và im ắng. Còn giám thị mới Nguyễn Quang Sáng thì giẫm lên xác ầm ĩ hơn, trang trọng hơn, bài bản hơn. Âu cũng là cách làm khác nhau của họ. Ðổi mới mà.

Hôm ấy, rét làm đông nước. Ở mái nhà nước đóng thành băng. Sáng ra, nhìn qua cửa sổ ra sân trại, khói bốc nghi ngút trên mặt đất. Như mọi ngày, chúng tôi tiến hành mọi việc như thường lệ. Với chúng tôi: Stalin chết, Malenkốp chết, John Kennedy bị bắn, Ngô Ðình Diệm chết, Kroutchov bị hạ bệ, chả có gì quan trọng cả.

Giám thị Nhân đã từng tuyên bố vào mặt chúng tôi:

“Cái sống chết của các anh ở trong tay chúng tôi. Ðừng có mơ tưởng hão huyền gì. Cho dù có động trời, động đất xảy ra, thì trước khi chuyện đó đến với các anh, nó phải tới cái trại đặc biệt này. Nghe cho rõ mà nhớ lấy. Trước khi mọi điều viễn vông, viễn tưởng mà các anh mong đợi xảy ra, thì các anh đã không còn ở cõi đời này nữa, các anh đã là những cái xác chết rồi.”

Chúng tôi nghe và cũng hiểu đúng như vậy. Cho nên, động đất, chiến tranh ai chết. Mặc. Chúng tôi cứ lặng lẽ, lặng lẽ tồn tại. Chỉ tồn tại thôi chứ không phải là sống. Làm một sinh vật trên trái đất này ai chả tham sống sợ chết. Tôi phải nói lại ngay, ấy là nói với riêng tôi thôi, chứ còn các vị thánh tử vì đạo thì điều ấy hình như không đúng đâu.

Cố Hoàng đôi lúc cao giọng:

Ở nơi lưu đầy

Dù gươm chém hay đầu rơi

Lòng vàng đá không hề phai

Dù gươm chém hay đầu rơi…

(Cha Vinh)

Các đấng bậc ấy chả sợ, chả phàn nàn điều gì. Chả bù với tôi, luôn miệng kêu: “Chao ôi đói quá! Chao ôi rét quá! Chao ôi khổ quá! Chao ôi…” Ðược cái tôi chỉ kêu lên thế thôi, cho nó thoát ra ngoài một chút thế rồi thôi, chả mong gì uất khí làm cho đầu trắng xóa như thái tử Ðan ở nước Tàu xưa kia, vì tôi cũng đã biết:

Gémir, crier, pleuer

est également lache

Và tôi nghiến răng lại để không bao giờ làm kẻ hèn nhát. Dù không được mười phần như các đấng bậc quanh tôi, tôi cũng cố đạt mức trung bình.

Còn tiếp

Nguồn : Người Việt

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 2)

0

Kiều Duy Vĩnh

 

LTS: Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục Công Giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo”.

 

Kỳ 2

 

Trong cái nhà mồ đó, có tôi và Trần Văn Liệu (Cầu Giát Nghệ An) vốn ăn to nói lớn thế mà lúc ông làm việc thiêng liêng, tôi, nhất là Liệu đến phải khép nép, và im lặng. Ðúng là một cái nhà mồ. Những người ở trong cái nhà mồ ấy chết gần hết, chỉ còn lại tôi, và hình như Liệu nữa.

Nhà tù của chúng tôi không có tên, hoặc là có thì đây: 65HE Bộ Công An, hay công trường 75A Hà Nội. Những người Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình đi thăm, hỏi công an địa phương, họ cho cái địa chỉ đó. Có người ngây thơ nghĩ rằng, người thân của mình được ra làm công trường ở Hà Nội. Họ ùa đi tìm và không bao giờ thấy cả.

Vậy nó ở đâu?

Ở thị xã Hà Giang đi lên, qua đèo Quyết Tiến đến Cổng Trời là gần biên giới Việt Trung chỗ có thể chưa được phân định rõ ràng, có thể là đất Tàu có thể là đất ta, một thung lũng không có tên, không có dân, chỉ có tù và người coi tù. Mặt đất đầy nghệ. Rừng nghệ. Tù lấy lá nghệ mọc trong gầm giường ăn thay rau chống đói. Không biết mình ở đâu? Không định được tọa độ trên bản đồ. Hàng rào cao kín mít, con chim không bay qua, con chuột to chui không lọt.

Sang đến năm 1963, thì tù phá đá ở ngay trong sân trại xây tường bao quanh. Tường cao như tường Hỏa Lò Hà Nội. Có dây kẽm gai, có điện truyền vào dây kẽm gai. Nghĩa là cực kỳ kiên cố. Không ai có thể trốn thoát được. Không một ai cả. Chế độ kiểm soát tù nhân cực kỳ nghiêm mật. Không một mảnh giấy lọt vào. Không một cái gì có thể gạch hoặc viết được ra chữ tồn tại trong tù. Không báo chí, thư từ. Tù nhân cấm không được viết thư và nhận thư. Nói khó ai tin: Cuộc chiến tranh với Mỹ xảy ra năm 1964 ở miền Bắc không một ai trong nhà tù biết cả. Chỉ thấy có một hiện tượng là những bức tường rào bao quanh được ngụy trang và các mái nhà được che phủ. Thế thôi. Không ai đoán ra được cái gì. Mãi cho đến năm 1967, tôi được đưa về trại Phú Sơn Thái Nguyên. Trên đường đi từ Hà Giang về tôi gặp quân Tàu nhập Việt trùng trùng điệp điệp kéo đi. Lúc ấy tôi mới biết là có chiến tranh.

Cực giỏi. Những người CS cực giỏi trong quản lý nhà tù, cũng như trong cái trò bưng tai, bịt mắt quần chúng nhân dân.

Một bức màn sắt đúng nghĩa.

Ðây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ. Vậy cấm cầu kinh, cấm lần tràng hạt, cấm làm dấu thánh. Cấm được ngồi trong đêm; vì không ai nằm mà cầu kinh cả.

Vậy nên cửa sổ nhà tù lúc nào cũng phải mở, mây bay vào qua cửa sổ mang cái lạnh chết người vào theo.

Cái màn cho tù, là một cái quan tài bằng vải. Quy định màn chỉ được cao 40cm để nếu tù có ngồi ban đêm cầu kinh thì nhô cái đầu lên, lính canh đi tuần có thể kiểm soát được, quản giáo đi tuần có thể nhìn thấy. Vậy cái màn dài 1m8 và cao 40cm, thì đúng là một cái quan tài bằng vải sô liệm người sống rồi còn gì.

Cứ từng bước một, ban giám thị trại thi hành chính sách diệt tôn giáo, cụ thể là diệt Thiên Chúa Giáo. Vì ở Cổng Trời tôi chưa hề gặp một nhà sư hoặc một Phật tử nào. Chỉ gặp các linh mục và các tu sĩ Thiên Chúa Giáo mà thôi. Có lẽ ở miền Bắc Việt Nam thời ấy không còn đạo Phật đúng nghĩa của nó. Trong cái nhà mồ đó, có một tôi là người là không theo đạo Thiên Chúa, nhưng tôi không phải là Phật tử. Tôi không thờ Phật, không tin vào Niết Bàn và Thích Ca Mâu Ni tuy tôi rất thích câu kệ:

Nhạn liệng từng không

Bóng in mặt nước

Nhạn không có lòng ghi dấu

Nước không có ý lưu hình

Với tôi, tất cả sư mô ở Bắc kỳ đều là sư hổ mang, học trường Ðại Học Tôn Giáo, tu theo nghĩa vụ, như nghĩa vụ quân sự, hết ba năm ra khỏi chùa về nhà lấy vợ đẻ con. Thế cả.

Và tôi cũng nghĩ sai về các tu sĩ Thiên Chúa Giáo như thế. Nhưng tôi đã thật sự gặp các vị thánh tử vì đạo. Các vị thánh tử vì đạo bằng xương bằng thịt sống cạnh tôi nhiều năm, mà tôi vẫn coi thường, nhưng cái chết của họ đã làm tôi phải nghĩ khác đi. Tôi vốn xa lạ với các tên Phêrô, Phaolồ và Mađờlen. Nhưng cái tên Ðỗ Bá Lung thì cho đến hết đời tôi không thể nào quên được. Tu sĩ Ðỗ Bá Lung người lù khù nhưng tử tế, hiền lành, củ mì như một nông dân chân chính của đồng bằng Bắc bộ. Chả là ông tu ở xứ đạo Ngọc Ðồng, Hưng Yên mà. Ông chưa được phong linh mục cũng như ông Diệu ở Thụy Phương Hà Nội, ông Chính (Nhẩm) ở Trung Ðông Thái Bình. Ông chả kể về ông mấy khi.

Trong cái nhà mồ đó chỉ có thầy Chính là có kể cho tôi nghe đôi điều về quê hương Thái Thụy của người, và về xứ đạo ven biển Trung Ðông mà thôi. Thêm nữa có nhà trí thức xứ Nghệ Khánh Sơn với đôi kính cận dầy cộm, ra cái điều học nhiều biết rộng, thiên kinh vạn quyển, cổ kim, Âu Á, hay nói với tôi về Phúc Âm, về Thánh Thomas d’Aquin. Tôi nghe ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm. Tôi vốn không có đức tin và vốn coi thường cái học vấn hẹp hòi của các vị đó thường giới hạn đến hết sân Nhà Thờ, nên tôi chỉ nghe chơi cho qua ngày đoạn tháng, cho qua cái thời gian dài dằng dặc khốn nạn ở trong cái nhà mồ mà thôi.

Còn tiếp

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 1)

1
July 15, 2012

LTS: Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục Công Giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo”.

Kỳ 1

 

Kiều Duy Vĩnh

 

Tôi sở dĩ sống đến hôm nay là vì tôi không phải là người Thiên Chúa Giáo. Nếu tôi mà đeo Thánh Giá ở ngực và biết câu Kinh thì tôi phải chết đã lâu rồi, từ những năm 60 của thế kỷ này, khi còn đi tù đày ở Cổng Trời kia.

Ngày ấy tuy qua mà như còn đấy…

(Chí Thiện)

Chúng tôi được tập trung ở Hỏa Lò Hà Nội từ khắp mọi miền đất Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở ra: Vĩnh Linh, Quảng Bình, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Mỏ Chén, Bất Bạt, Sơn La, Yên Bái, Lao Kay.

Tay xích còng số 8, hai người một.

Hàng đầu: Cha Vinh (địa phận Hà Nội) người bị kết án có 18 tháng tù thôi thế mà hóa ra án tử hình. Cha Quế, địa phận Xã Ðoài, Nghệ An. Thứ đến là Nguyễn Hữu Ðang, người cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm. Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, tu sĩ xứ Ngọc Ðồng Hưng Yên (nay là Hải Hưng), khét tiếng chống Cộng Sản (1). Tiếp sau đó là một lũ tù dây, đầu trần trán khỉ, hôi hám rách rưới, chống bướng, cứng đầu cứng cổ không chịu sự cải tạo của đảng và chính phủ, bọn “dám bẻ que chống trời…

Chúng tôi lên xe đi. Súng ống bao quanh. Ði đâu?

Không ai ai biết cả. Cả những người cầm súng, cũng không biết. Có lẽ chỉ có một người biết. Người đó xách cặp đen đựng danh sách tù nhân, mặt mũi tử tế, ăn mặc dân sự chỉnh tề, đi trên chiếc commăng ca dẫn đường.

Chỉ biết là chúng tôi đi lên hướng Bắc. Ngày đó đường sá đầy ổ gà ổ voi, xe đi chậm. Mãi trưa chúng tôi mới tới Vĩnh Yên. Nghỉ lại ăn cơm trưa.

Tôi ngồi gần Nguyễn Hữu Ðang, thấy người xách cặp đen đi qua để “kiểm tù” nói năng lễ độ tử tế, nhẹ nhàng.

“Anh Ðang, anh có khỏe không?”

“Vâng, tôi khỏe”.

Hai người nhìn nhau thông cảm:

“Anh có yêu cầu điều gì không?”

“Không. Cám ơn.”

Người đó lặng lẽ đi tiếp.

Chúng tôi lại tiếp tục đi lên phía Bắc. Ðến Ðoan Hùng. Lúc đó chưa có cầu. Chúng tôi phải xuống xe chờ phà. Ðể tránh sự chú ý: Họ lùa chúng tôi vào sâu trong ngõ cạnh đường, ở đó có một trường học. Có lẽ cấp hai. Các em học sinh và các thầy cô giáo tò mò ra xem lũ tù đày. Họ chỉ trỏ xì xào, hỏi han.

Nguyễn Hữu Ðang hỏi:

“Các cháu có biết nhân vật lịch sử Cao Bá Quát không?”

Qua phà chúng tôi đến Tuyên Quang ngủ lại trại giam Tuyên Quang. Lệnh: Không được cởi xích tay. Qua một đêm không thể nào mà ngủ được. Thằng muốn đi ỉa đi đái, phải đánh thức thằng tù đang ngủ dậy.

5 giờ dậy đi tiếp.

Kiểm số tù lần cuối vẫn là ông xách cái cặp đen tử tế. Ông ta tỏ vẻ rất biệt đãi đối với anh Ðang, làm tôi nghĩ đến chuyện “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân trong “Vang Bóng Một Thời”.

Ðến Hà Giang, sau khi ăn cơm trưa, chúng tôi đi tiếp vào một con đường mới mở, hẹp và cheo leo. Mọi người nhìn nhau:

“Ði mô?”

Mấy ông Nghệ Tĩnh hỏi nhau.

“Có lẽ sang Tàu.”

Anh Ðang bảo: “Lên Cổng Trời Cắn Tỷ.”

Xe đi chậm vì đường quá xấu. Thế rồi cũng qua được hết, qua đèo Quyết Tiến như là đi máy bay, qua rừng, qua suối, qua mây, và rồi màn đêm buông xuống, chúng tôi đi trong đêm. Tôi vốn là một sĩ quan rất giỏi về Topo, cố định hướng xem mình đi về đâu, hướng nào và đã đi bao xa, nhưng lúc đó cũng chịu. Ðộ 2 giờ sáng đến một địa điểm đèn đuốc sáng choang.

Lệnh xuống xe.

Chúng tôi bị lùa vào một khu rừng, và vào một cái nhà có tường dầy 0.80 mét bằng đất nện, cửa lim, trong nền nhà mọc đầy cây nghệ, lá xách om mượt mà. Cửa khóa lại. Không có đèn đóm gì. Tay hai người vẫn bị xích lại với nhau. Mỗi nhà nhận độ 20 người. Sờ soạng sắp xếp và ngủ tiếp.

Sáng hôm sau, cửa mở, đem toàn bộ đồ dùng ra sân. Khám xét. Lục lọi. Tất cả cái gì bằng kim loại, thánh giá, tràng hạt, kể cả cái thìa nhôm cũng bị tịch thu lấy đi.

Xong, đọc tên phân loại.

Khu O. Khu H. Khu A. Khu B. Khu C. Khi đi và lúc đọc tên tôi nhẩm: có 72 người. Phần lớn là già, đứng tuổi và 99 phần trăm là Thiên Chúa Giáo.

Cha Vinh, cha Quế được gọi đi trước, đi về khu O. Nguyễn Hữu Ðang vào khu C. Tôi và tu sĩ Ðỗ Bá Lung vào khu A. Khu A có hai nhà. Nhà tôi ở có: – Ðinh Hiền Lương, tu sĩ dòng tu ép xác Châu Sơn, Ninh Bình, Ðức cha Lê Hữu Từ trước khi làm Giám mục Phát Diệm đã tu ở đó. – Nguyễn Trung Chính, tức Nhẩm, tu sĩ xứ Trung Ðồng, Thái Bình. Nguyễn Văn Khánh Sơn, giáo dân đeo kính cận người Nghệ Tĩnh. – Cố Hoàng: giáo dân Ðức Thọ, Hà Tĩnh, có hai người sinh đôi là Song, Toàn để phân biệt với – Tu sĩ Hoàng cũng Nghệ An. – Lưu Nam phụ trách thanh niên Công Giáo địa phận Xã Ðoài. – Tu sĩ Bình, địa phận Thái Bình. – Tu sĩ Ðỗ Bá Lung xứ Ngọc Ðồng, Hưng Yên. – Trần Văn Liệu, giáo dân làm nghề đồ tể ở Cầu Giát, Quỳnh Lưu, v.v.

Nhà rất rộng, có 2 sạp nằm đối đầu nhau. Chúng tôi là tù chính trị nên đều hết sức tử tế nhường nhịn nhau, ai nằm đâu thì nằm không hề tranh giành cãi cọ.

Xếp đồ đạc xong, đã đến giờ làm việc thiêng liêng, ai nấy đều cầu kinh và làm dấu thánh giá.

Riêng tôi, có mỗi một mình tôi, không biết cầu, không thuộc kinh bổn gì ráo trọi nên tôi bèn nghĩ tới cái trò Yoga mà tôi đã đọc ở đâu đó. Những năm của thập kỷ 60 người ta ít biết và ít nói về cái trò đó. Tôi ngồi thở và sau đó Trần Văn Liệu hỏi tôi “Ðược mấy cân hơi rồi.”

Ngày đầu tiên ở Cổng Trời Cắn Tỷ chấm hết ở đó.

Sang ngày thứ hai, mọi người dậy sớm. Cứ ngồi mà nhìn nhau. Không có nước để đánh răng rửa mặt. Tám giờ, chín giờ rồi mười giờ. Vẫn im ắng như không. Các đấng bậc tu sĩ lại cầu kinh. Tôi lại luyện yoga.

Hai cái thùng đựng phân và nước tiểu bằng gỗ đều đầy cả. Nước đái tràn cả ra ngoài.

Mãi đến 11 giờ, có tiếng gọi: “Lấy cơm.”

Có hai tên tù hình sự ở trại ngoài khênh cơm đến để ở cửa rồi chạy biến. Cấm được nhìn, được hỏi, được tiếp xúc trao đổi cái gì. Bọn kiên giam, biệt giam là cực kỳ nguy hiểm, chúng giết người không gớm tay, bọn ăn gan uống máu đồng bào.

Nhưng thật sự, nhìn kỹ thì: – Ðinh Hiền Lương dòng tu ép xác Châu Sơn xanh lướt như một cái bóng. Các tu sĩ đều vậy cả. – Cố Hoàng thì chỉ có hát là cao giọng thôi, chứ đi đứng thì lẩy bẩy. – Khánh Sơn thì mù dở. Nếu ăn gan uống máu đồng bào được thì may ra có tôi và Trần Văn Liệu. Nhưng sau những năm tháng tù đầy ở dưới đồng bằng, bị đói, bị khát bị quần cho đến tơi người bản thân tôi, nắm tay không chặt thì còn làm gì được nữa. Ðã rất nhiều lần tôi thử sức, nắm thật chặt để nắm tay mình trở thành quả đấm, nhưng không bao giờ thành, bàn tay tôi không bao giờ có thể nắm chặt lại để thành nắm đấm cả. Thực trạng là như vậy đấy. Nhưng chắc là có lệnh nghiêm mật, giám thị, quản giáo và lính coi tù họ đối xử với chúng tôi cực kỳ tàn bạo và hà khắc.

Ðiều cuối cùng họ phải thi hành nghiêm chỉnh là làm cách nào giết hết được chúng tôi. Và họ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó: 72 người còn lại độ chừng 11 người. Tôi dám nói con số đó chính xác đến 99%.

Năm đó là năm 1961. Chúng giết anh em ta ở khu O, khu H, và khu A. Những lò thiêu xác (khổng lồ hay nhỏ nhoi?) không có khói và không cần chất đốt.

Chúng giết anh em ta

Bằng chiều cao của núi

Bằng chiều sâu của đất

Bằng thông cáo của nha khí tượng.

Cứ âm O độ là gọi đi xà lim. Xà lim là một cái quan tài bằng đất dầy một mét, cùm răng cá sấu cắn chân không bao giờ được mở, và bỏ đói cho đến chết. Tiếng gọi của thần chết đột ngột, bất thần, không lý do và khỏi cần giải thích. Lưu Nam, chuẩn bị đi. Khánh Sơn chuẩn bị đi. Ðinh Hiền Lương, chuẩn bị đi. Cứ thế lần lượt ra đi và không ai trở lại.

Những năm tháng ấy, tôi ngửi thấy cái chết gần gũi quá. Lần đầu tiên trong đời, qua những năm chinh chiến, qua những cuộc hành quân chiến dịch, tôi đi trong cảnh máu chảy đầu rơi, chân tay vung vãi, khói lửa mù trời, tiếng đại bác bắn dồn dập, mặt đất rung chuyển, máy bay rít sát trên đầu, tiếng xích sắt của xe tăng nghiến sàn sạt sát sườn, cả khi người vệ sĩ của tôi chạy cạnh tôi trong chiến đấu, bị nguyên một băng tiểu liên quét trúng, ngã trong cánh tay tôi, người đầy máu thều thào: “Em chết, trung úy ạ…” cả những lúc ấy tôi vẫn chưa cảm thấy mùi Thần Chết.

Nhưng ở đây, Cổng Trời Cắn Tỷ, những năm 60, tôi ngửi thấy và cảm thấy nó rất gần. Lặng lẽ, lặng lẽ nó tiến đến. Không thể nào cản nổi. Một cặp lỗ hổng vô cảm của đôi mắt, một tiếng gọi tên, vài cái lưỡi lê chĩa vào… Thế là ra đi, thế là chết.

Một người ra khỏi cửa, những người còn lại nhìn nhau chờ đợi. Không ai nói với ai điều gì. Chúng tôi ăn cơm hai bữa một ngày, chín giờ sáng và ba giờ chiều. Ăn xong ngồi nhìn nhau. Chờ.

Các đấng bậc tu sĩ rất ít nói, nhất là Ðinh Hiền Lương, dòng tu ép xác Châu Sơn. Trông Ðinh Hiền Lương tôi nhớ đến Ðức Giám Mục Lê Hữu Từ địa phận Phát Diệm: Khô, gầy, mặt đầy nếp nhăn khắc khổ. Tuy còn trẻ hơn nhưng tu sĩ Lương cũng gần giống vậy, chỉ có nước da trắng xanh hơn vì ở xà lim suốt. Tuy ông mặc áo tù, nhưng trước mắt tôi vẫn cứ hiện lên hình ảnh của Giám Mục Lê Hữu Từ, người ngồi đó lặng lẽ ôn tồn nhẹ nhàng để đi đến cái chết.

Ở với ông lâu, nhưng tôi chưa được nghe một câu chuyện nào do ông kể, vì ông chỉ nói mỗi ngày có vài tiếng thật cần thiết để tồn tại. Còn thì im lặng suốt. Cái im ắng của ông, tỏa ra chung quanh, đè xuống mọi người.

Còn tiếp

Luật Báo chí, nhà báo và người dân

  • NGUYỄN VẠN PHÚ
  • 28.09.2015, 08:58
TTCT- Đôi lúc chúng ta tò mò về Luật báo chí khi gặp chuyện phiền phức với một tờ báo nào đó. Một bác sĩ bị trích lời sai lệch, một ca sĩ bị báo bịa chuyện phỏng vấn trong khi chưa hề gặp phóng viên nào, một nhà nghiên cứu bị gán cho những phát biểu gây sốc trên báo… Có lẽ lúc đó mà có Luật báo chí ngay trước mắt để đọc xem luật quy định như thế nào thì hay quá. 

Luật Báo chí, nhà báo và người dân
Minh họa Salem

Ngoài ra, dường như chẳng ai quan tâm đến đạo luật này, trừ giới nhà báo! Nhưng có đúng vậy chăng?

Luật Báo chí và người dân

Giới báo chí từ lâu đã rất phiền bực chuyện hàng ngàn trang “thông tin điện tử tổng hợp” thản nhiên sao chép nguyên xi các bài viết trên báo đem về làm như của họ. Cứ nghĩ mà xem, một trang tổng hợp như thế, chép từ hàng chục tờ báo chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn bản thân từng tờ báo riêng lẻ. Vậy là báo chí chỉ biết ngồi nhìn người khác cướp tài sản trên tay về để kinh doanh mà không làm sao ngăn được. Thế nhưng Luật báo chí sửa đổi lại khuyến khích các trang thông tin điện tử tổng hợp “trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin báo chí”?!

Có lẽ ít người biết Luật báo chí trao cho người dân những quyền rất lớn để bảo vệ họ trước sự lạm quyền, nếu có, của báo chí. Luật hiện hành (sửa đổi năm 1999) cho phép bất kỳ ai có căn cứ cho rằng báo đăng sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình thì hồi đáp và báo phải có nghĩa vụ đăng tải hồi đáp đó. Luật sửa đổi (Quốc hội sắp bàn để thông qua) còn tiến thêm một bước nữa khi khẳng định dù báo không đồng tình với phản hồi đó thì cũng vẫn phải đăng rồi mới được tiếp tục thông tin làm rõ quan điểm của báo.

Thực tế nhiều người bị báo nói sai cũng im lặng cho qua vì không muốn dây dưa với báo chí. Trừ một số ít trường hợp đem nhau ra tòa, nhiều người dùng biện pháp nhờ cơ quan quản lý báo chí can thiệp, nhất là giới có quan hệ tốt như chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước hay có đầy đủ phương tiện để vận động can thiệp.

Chính điều này đã làm méo mó quan hệ giữa người dân và báo chí, phá hỏng một quá trình xây dựng trách nhiệm giải trình của báo chí trước công luận để khỏi rơi vào bế tắc “ai giám sát người đi giám sát”.

Vì vậy, điều nhiều người mong muốn ở Luật báo chí sửa đổi lần này là một sự chế tài, kể cả quy định chi tiết cách kiện ra tòa, để báo chí phải tuân thủ tính chuyên nghiệp, tính nghiêm túc trong đưa tin có ảnh hưởng đến người khác.

Sự chế tài đó hiện thiếu vắng ở dự thảo đang lưu hành vì, ví dụ trong trường hợp nói trên, luật quy định sau ba lần đăng phản hồi qua lại giữa tổ chức, cá nhân và cơ quan báo chí mà không đạt được sự nhất trí thì… thôi, báo có quyền im lặng! Hoặc nghĩa vụ đăng tải phản hồi lại bị vô hiệu hóa bởi một điều luật khác: “Cơ quan báo chí có quyền không đăng, phát ý kiến phản hồi của tổ chức, cá nhân nếu ý kiến đó vi phạm pháp luật, xúc phạm đến uy tín, danh dự của cơ quan báo chí, của tác giả”.

Nói đi thì cũng phải nói lại, cũng may là người dân ít để ý đến Luật báo chí và văn bản dưới luật có liên quan. Hình như ít ai biết có một quy chế, đặt ra quy định “nếu người được phỏng vấn yêu cầu xem lại nội dung trước khi đăng, phát, cơ quan báo chí và người phỏng vấn không được từ chối yêu cầu đó”. Nếu ai cũng biết và đòi hỏi thực hiện yêu cầu này thì xem như báo chí bó tay, không còn những bài phỏng vấn góc cạnh, bất ngờ và độc đáo nữa. Và cũng may, yêu cầu này không có trong dự thảo Luật báo chí sửa đổi.

Như thế, mong muốn của người làm luật để Luật báo chí thể hiện quyền tự do báo chí của công dân, một điểm mới so với luật hiện hành, đã được hiểu một cách rất giản lược. Chẳng hạn đó chỉ là quy định công dân được quyền cung cấp thông tin cho báo chí, được phát biểu trên báo chí, góp ý, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí…

Vì quy định này mà sau đó có những điều luật chắc chắn không khả thi trong thực tế như bắt báo chí phải tiếp nhận và đăng các tin, bài, ảnh của công dân gửi tới, nếu không đăng thì phải có trách nhiệm trả lời. Thực tế không hề đơn giản như thế và tự do báo chí của công dân không chỉ là chuyện viết và đòi báo phải đăng.

Trong khi đó, một biểu hiện của quyền tự do báo chí của công dân là sự tự do biểu đạt suy nghĩ của họ dưới bất kỳ hình thức và phương tiện nào lại không được luật đề cập.

Với sự phức tạp và nhạy cảm của đề tài báo chí như một lãnh đạo trong ngành phát biểu, ít nhất cũng nên nhìn mối quan hệ giữa báo chí và công dân như nói ở phần đầu – tạo ra một hành lang pháp lý mạnh, có chế tài đầy đủ để công dân có mối quan hệ bình đẳng, hai bên cùng tôn trọng nhau, hợp tác với nhau vì sự lành mạnh của xã hội.

Luật Báo chí và nhà báo

Giả định chẳng ai quan tâm đến Luật báo chí, trừ giới nhà báo, hóa ra lại trật lất. Một cuộc thăm dò bỏ túi cho thấy trong mười nhà báo được hỏi, chỉ có hai người đã đọc dự thảo Luật báo chí sửa đổi. Dù số người đã đọc Luật báo chí hiện hành có cao hơn – đến sáu người – nhưng chỉ một người cho biết có tham khảo lại luật khi hành nghề bởi đa số nói luật không liên quan gì đến công việc làm báo của họ cả.

Nhà báo mà lại ít quan tâm đến Luật báo chí có lẽ vì ngoài phần quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân như đã nói thì đây là “luật quản lý báo chí” đúng hơn là “Luật báo chí”. Đúng là các phần liên quan đến quản lý nhà nước như cấp giấy phép, cấp thẻ nhà báo, cách tổ chức cơ quan báo chí… chiếm phần lớn nội dung của dự thảo.

Mà lạ một điều, dự thảo Luật báo chí sửa đổi có những điều khoản sẽ tác động rất lớn đến cách tổ chức cơ quan báo chí như người đứng đầu nay sẽ là tổng giám đốc, giám đốc chứ không phải là tổng biên tập nữa và mỗi cơ quan báo chí sẽ có nhiều tổng biên tập chịu trách nhiệm cho các ấn phẩm khác nhau. Các quy định này cần được thảo luận rộng rãi và sâu sắc để có cách tiếp cận phù hợp và công bằng.

Đó là bởi những điều thực chất hơn, thiết thân hơn trong hoạt động nghề nghiệp không được luật nhắc đến hay nhắc đến một cách sơ sài. Chẳng hạn, hiện nay giới báo chí rất phiền bực chuyện hàng ngàn trang “thông tin điện tử tổng hợp” cứ sao chép nguyên xi các bài viết trên báo đem về làm như của họ. Cứ nghĩ mà xem, một trang tổng hợp như thế, chép từ hàng chục tờ báo chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn bản thân từng tờ báo riêng lẻ.

Vậy là báo chí chỉ biết ngồi nhìn người khác cướp tài sản trên tay về để kinh doanh mà không làm sao ngăn được. Thế nhưng Luật báo chí sửa đổi có giải quyết được việc này không? Không hề. Thậm chí còn khuyến khích các trang thông tin điện tử tổng hợp “trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin báo chí”!

Ở đây xin bàn thêm một điểm. Luật báo chí nguyên thủy năm 1989 nói nhiệm vụ của báo chí là “thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới”. Đến khi sửa luật vào năm 1999, điều này được sửa thành “thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân” và đến dự thảo lần này cũng gần như giữ nguyên so với năm 1999 (“thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân”).

Với nội dung này, một ông chủ tịch tỉnh hoàn toàn có thể ra lệnh cho báo tỉnh và các văn phòng đại diện báo khác ở tỉnh này không được đăng chuyện ông ra công văn yêu cầu công chức trong tỉnh phải uống bia sản xuất tại tỉnh này. Bởi đăng như thế là có hại đến lợi ích của tỉnh cũng như dân trong tỉnh!

Đã từng có những yêu cầu không đưa chuyện nông dân bị ép giá mua lúa vì sợ nhà nhập khẩu nước ngoài biết, ép thêm; hay chuyện không đưa tin có nơi có lúc bỏ tạp chất vào nông sản xuất khẩu – tất cả đều dưới lý do không phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân. Trong cái nhìn dài hạn, đấu tranh để dứt khoát loại bỏ các tật xấu này đòi hỏi báo chí phải lên tiếng một cách đều đặn, bền bỉ và kịp thời để cái xấu không lan ra.

Trong cuộc sống có hàng ngàn ví dụ như thế mà nhà báo phải đương đầu, cân nhắc hằng ngày. Luật cần giúp cho quá trình này diễn ra bình thường và lành mạnh, khoa học, để luật thật sự đi vào cuộc sống. ■

Luật Báo chí, nhà báo và người dân

Luật này thực ra là dùng để quản lý báo chí

TTO – Đó là ý kiến của ông Đỗ Danh Phương, Tổng biên tập báo Người Lao Động tại hội thảo góp ý cho dự án Luật Báo chí sửa đổi ngày 16-3, do Đoàn ĐBQH TP.HCM tổ chức. 16/03/2016 23:25 GMT+7

Đây là lần góp ý cuối cùng để thông qua cho dự thảo luật này trong kỳ họp Quốc hội sắp tới.

“Tôi thấy, đây là Luật quản lý báo chí!”

Đó là ý kiến của ông Hoàng Chương, Phó tổng biên tập báo Pháp Luật TP.HCM.

Ông Chương cho rằng đối tượng của luật này là những tờ báo đang được quản lý, còn rất nhiều trang mạng khác thì không thuộc đối tượng quản lý của luật này.

Từ đầu đến cuối, là sự quản lý “sát sàn sạt”. Trong đó, dự thảo luật có nhiều chế định có vẻ chặt quá, nhưng thực ra là hổng. Vì khi luật phân chia ra báo chí thành các loại hình, phương thức báo in, nói hình, điện tử để quản lý nhưng đó là quản lý về phương thức chứ không phải là quản lý về nội dung.

Điều quan trọng là nội dung có phạm vào những điều mà báo chí không được tuyên truyền không? Rồi nội dung đó có giúp cho đất nước, xã hội, ngành không? Các cơ quan này có thấu hiểu tình cảnh của dân chúng không?

“Vậy nên, theo tôi, thiết kế như dự thảo hiện nay là sai hướng”, ông Chương phát biểu.

Ngoài ra, ông Chương cũng có ý kiến cho rằng, các loại hình thông tin hiện nay phát triển là kinh khủng, chúng ta không biết sau Facebook là gì. Có ý kiến nêu rằng có nên quản lý Facebook không? Quản lý cái gì? Nếu không quản thì chúng ta cấm báo chí tư nhân nhưng nhiều tờ báo xuất bản thông tin trực tiếp trên Facebook, thậm chí cá nhân cũng có quyền xuất bản, lan truyền thông tin, và thực tế là có những cá nhân mà Facebook của họ có lượt truy cập nhiều hơn các báo chính thức. Như vậy, phải có cơ chế quản chứ?

Ngoài nội dung trên, ông Chương cũng nêu quan điểm về việc thẻ nhà báo có phải là thẻ hành nghề không.

Ông Chương cũng nêu ý kiến phản đối điều khoản Tổng giám đốc trùm quyền lên Tổng biên tập các tờ báo, vì theo quy định, thì người chịu trách nhiệm về nội dung là Tổng biên tập. Vậy thì Tổng giám đốc thực sự không có quyền gì, thêm chức danh đó là không cần thiết.

Không cần thiết phải có luật báo chí!

Đồng ý với nhiều quan điểm của ông Hoàng Chương, ông Đỗ Danh Phương, Tổng biên tập báo Người Lao Động, cho rằng luật báo chí hiện nay thực ra là luật dùng để quản lý và siết các cơ quan báo chí.

Ông Phương kể một câu chuyện về việc trước khi xây dựng Luật Báo chí: có nhà làm luật hỏi ông là có cần thiết có một bộ luật dành cho báo chí không?, ông Phương đã trả lời rằng cần, bởi cần có hành lang để xã hội cung cấp thông tin và bảo vệ công việc của báo chí.

Tuy nhiên, trải qua thời gian áp dụng và bây giờ thì ông Phương lại thấy băn khoăn: “Vì ngay sau khi nó ra đời nó đã lạc hậu với thời cuộc. Và chúng ta hoạt động đã có các luật khác điều chỉnh”.

Lấy ví dụ về việc dự thảo luật quy định rằng điều kiện để ra báo hình là phải có phương tiện truyền dẫn phát sóng nhưng giờ thì truyền hình được truyền tải trên mạng xã hội, internet rồi. Vậy nên yêu cầu có phương tiện truyền dẫn có còn phù hợp nữa không? Ông Phương đặt câu hỏi.

“Chúng ta không thể hình dung ngày mai thế nào, vì mỗi công dân đều có thể trở thành nhà báo, vì họ có quyền chụp hình quay  phim đưa lên mạng. Còn Luật này để quản lý các tờ báo đang trực thuộc, còn những thứ mênh mông kia thì không không định hướng được”, ông Phương nêu.

Báo chí cần được chia sẻ khó khăn!

Ngoài các nội dung trên, các đại biểu tham dự cũng cho rằng nên kiểm soát báo chí bằng nội dung chứ không nên kiểm soát cơ quan thành lập báo chí.

Theo đó, nhà báo Hồng Lam, Phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng cho rằng nên có cách để quản lý cơ quan báo chí chứ không nên gom về một mối.

Đồng thời, bà Phạm Phương Thảo, nguyên Chủ tịch HĐND TP. Hồ Chí Minh cũng cho rằng báo chí trong thời gian tới phát triển sẽ rất khó khăn từ phát hành đến thu nhập của nhà báo.

Đây cũng là ý kiến của ông Đỗ Văn Dũng, Phó tổng biên tập báo Tuổi trẻ, bởi hiện nay báo chí đối mặt với nhiều khó khăn, báo chí thi bị cạnh tranh bởi báo mạng, báo mạng bị mạng xã hội cạnh tranh.

Hiện nay các  tờ báo đều tìm kiếm quảng cáo và tăng nguồn thu rất cực khổ. Vậy nhà nước tiếp sức gì cho báo chí? Ông Dũng mong rằng cần phải có sự thấu hiểu để tạo sự thông thoáng, năng động và tự chủ cho các cơ quan báo chí.

Về việc, báo chí có phải là doanh nghiệp không? Thực sự thì báo chí phải xoay xở, vậy báo chí liên kết dịch vụ liên quan đến công việc để tạo nguồn thu về báo chí có được không?

“Tôi sợ rằng khi Luật có hiệu lực thì báo chí có tăng thêm nhiều loại hình khác. Ví như chúng ta bán báo, quảng cáo, rồi xuất hiện hình thức kinh doanh trên Youtube chẳng hạn. Vậy nên cần phải xem xét các yếu tố này”, ông Dũng nói.

Kiến nghị bỏ quy định báo chí phải đăng lại thông tin phản hồi

Về khoản 2 điều 44 dự thảo Luật Báo chí sửa đổi có quy định báo chí phải đăng lại thông tin phản hồi của các cơ quan tổ chức, ông Đỗ Danh Phương, Tổng biên tập báo Người Lao động, đề nghị bỏ điều khoản này, bởi thực tế kinh nghiệm làm báo của ông Phương cho thấy 90% phản hồi của các cơ quan tổ chức liên quan là không đúng.

“Báo chí cần phải được bàn bạc và xác minh đối với những ý kiến đó chứ không thể bắt đăng ngay. Bởi báo chí còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những điều mình đăng, và chịu trách nhiệm trước tòa nữa. Do đó, điều khoản này có hiệu lực thì không thể thực hiện được”, ông Phương nói.

Đồng tình với việc loại bỏ khoản 2 điều 44, ông Hồng Lam, Phó tổng biên tập báo SGGP, cho rằng bắt đăng ý kiến phản hồi vô tình lại đi PR cho các cá nhân, cơ quan tổ chức.

“Ví như đăng bài gì về giới showbiz, đăng xong người ta cứ đưa ý kiến phản hồi, cứ đăng miết thì thành PR cho họ à”, ông Lam giả thiết.

HOÀNG ĐIỆP

​Sử dụng mạng xã hội là quyền tự do ngôn luận

TTO – Quốc hội đã nói không với “đề nghị bổ sung quy định phóng viên, nhà báo không được sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền trái với tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí”. 05/04/2016 11:06 GMT+7
​Sử dụng mạng xã hội là quyền tự do ngôn luận
Kết quả Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Báo chí (sửa đổi) – Ảnh: L.K

Luật Báo chí (sửa đổi) được Quốc hội thông qua cách đây ít phút, sau khi Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nguyễn Thanh Hải trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình. Theo đó, đề nghị nêu trên của một vài đại biểu Quốc hội đã không được chấp nhận.

“Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, đây là quyền tự do ngôn luận của công dân đã được hiến định nên không thể đưa nội dung này vào dự thảo Luật.

Trường hợp thấy cần thiết phải quản lý những hoạt động trên, cơ quan báo chí có thể quy định nội dung này tại quy chế hoạt động của cơ quan báo chí đó” – bà Hải trình bày.

Trước ý kiến của một số đại biểu Quốc hội cho rằng quy định cơ quan báo chí phải đăng, phát kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của công dân là khó khả thi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích:

“Quyền góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân trên báo chí là thuộc quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được hiến định. Báo chí là diễn đàn để công dân thực hiện quyền đó”.

Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn và bảo đảm tính khả thi của Luật, khoản 1 Điều 12 dự thảo Luật quy định cơ quan báo chí đăng, phát kiến nghị, phê bình của công dân phù hợp với tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí đó chứ không phải đăng phát mọi kiến nghị, phê bình do công dân gửi đến.

Có ý kiến cho rằng dự thảo Luật không nên để Chính phủ quy định hoạt động phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước mà cần quy định nội dung này ngay tại Luật.

Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo Luật đã quy định về nguyên tắc chung của việc cung cấp thông tin cho báo chí mà các cơ quan hành chính nhà nước phải tuân thủ.

Ngoài ra, việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước còn có thêm nhiều nội dung như: người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; Quyền và trách nhiệm của người phát ngôn, người được ủy quyền phát ngôn; trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo trong việc đăng, phát nội dung phát ngôn; hoạt động phát ngôn và cung cấp thông tin định kỳ, đột xuất, bất thường.

Mỗi nội dung này lại kèm theo quy trình, thủ tục liên quan. Thêm vào đó, hoạt động này còn đang trong quá trình nghiên cứu thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện.

Luật Báo chí (sửa đổi) có 61 điều, có hiệu lực thi hành từ 1-1-2017.

Cấp phép phải phù hợp với quy hoạch báo chí

Có ý kiến cho rằng hiện nay số lượng cơ quan báo chí được đầu tư bằng ngân sách nhà nước quá nhiều, cần có quy định sắp xếp lại cơ quan báo chí theo hướng tinh gọn, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, khoản 5 Điều 17 quy định điều kiện cấp giấy phép hoạt động báo chí là phải phù hợp với quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc…

Hiện nay, Đề án quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 đã được Bộ Chính trị cho ý kiến và đang được hoàn thiện để Thủ tướng chính phủ phê duyệt theo thẩm quyền nhằm sắp xếp lại hệ thống báo chí toàn quốc theo hướng thu gọn đầu mối cơ quan báo chí.

Theo Báo cáo tiếp thu, giải trình dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi)

LÊ KIÊN/TUỔI TRẺ