
BỐ VÀ CON
Phát Lý
Con: Bắt đầu từ hôm nay, bố muốn đăng hình của con lên fb là phải được sự đồng ý của con – tức bố phải xin phép con, bố nhé!
Bố: Cái thằng dỡ hơi! Tao là bố mày, tao muốn làm gì thì tao làm, sao lại phải xin phép?
Con: Mong bố thông cảm và chấp hành vì đây là quy định của nhà nước.
Bố: Vậy tao hỏi mày: lâu nay tao bắt mày đến giờ phải ăn, bắt mày đến giờ phải ngủ, đến giờ phải đi học… mà toàn thấy mày không đồng ý, vậy cũng là trái quy định của nhà nước à?
Con: Dạ không trái vì nhà nước chưa quy định: muốn cho con ăn, ngủ, học… là phải xin phép con.
Bố: Thế tóm lại, bây giờ trở đi muốn đăng bất cứ cái hình nào của mày lên fb thì tao phải xin phép mày?
Con: Ồ, tất nhiên thưa bố! Nhưng cho chắc ăn và để bố muốn đăng hình con mọi lúc, mọi nơi thì chúng ta nên ký biên bản thỏa thuận.
Bố: Biên bản thỏa thuận?
Con: Vâng, biên bản thỏa thuận giữa con và bố. Biên bản này được lập thành 4 bản có giá trị như nhau. Trong biên bản này có hai điều rất quan trọng mà bố phải đọc cho kỹ trước khi ký. Điều 1: con ủy quyền và cho phép bố đăng ảnh của con thoải mái lên mạng xã hội mà không đòi hỏi, thắc mắc hay kiện cáo gì cả.
Bố: Ô kê, thế còn điều thứ hai?
Con: Điều thứ hai, đổi lại bố phải không được ép con ăn, ép con ngủ, ép con học bài… ngược lại bố phải cho con được chơi game thoải mái, bất kể giờ giấc nào.
Bố: Tiên sư cái thằng ranh con! Biên với chả bản, thỏa với chả thuận, mày bước vô phòng học bài ngay!
Bị tố ‘chôm’ bản đồ: Phó tổng GĐ bất ngờ nhắn tin xin lỗi sinh viên
vietnamnet.vn
– Sau khi liên hệ qua điện thoại với anh Đào Mạnh Sơn không được, Phó Tổng giám đốc Ban quản lý dự án (QLDA) đường sắt đã nhắn tin cho SV này.
Chiều 2/6, ông Vũ Hồng Phương, Phó Tổng giám đốc Ban QLDA đường sắt đã trực tiếp liên lạc với anh Đào Mạnh Sơn (SV trường ĐH Kinh tế Quốc dân) – người vừa xác nhận bản quyền đối với “bản đồ vị trí các ga tàu” sử dụng tại một số pano trưng bày giới thiệu mạng lưới đường sắt đô thị Hà Nội tại ga La Khê.
Do số điện thoại của anh Sơn (được một phóng viên cung cấp) không liên lạc được nên lãnh đạo Ban QLDA đường sắt đã để lại tin nhắn với nội dung sau:
“Thân gửi anh Đào Mạnh Sơn, SV trường ĐH Kinh tế Quốc dân.
Tôi là Vũ Hồng Phương, Phó Tổng giám đốc Ban QLDA đường sắt – đơn vị được giao nhiệm vụ đại diện chủ đầu tư dự án đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông.
Trước hết, thay mặt Ban QLDA đường sắt, cho phép tôi được gửi lời xin lỗi đối với sơ suất sử dụng bản đồ mà chưa được sự đồng ý của tác giả.
Ban quản lý dự án đường sắt mong muốn có buổi làm việc trực tiếp với bạn để trao đổi về việc sử dụng bản đồ nói trên.
Một lần nữa, Ban quản lý dự án đường sắt thành thật xin lỗi và rất mong nhận được sự hợp tác của bạn.
Trân trọng!”.
Do không liên lạc được, trong thời gian chờ ý kiến của tác giả, Ban QLDA đường sắt sẽ tạm dừng sử dụng hình ảnh nói trên tại một số pano đang trưng bày tại ga La Khê.

Đường sắt Cát Linh – Hà Đông rỉ sét: Chủ đầu tư nói gì?
Sau khi Hội đồng nghiệm thu Nhà nước (Bộ Xây dựng) công bố tình trạng Đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông bị rỉ sét, có vết nứt; tối 29/5, Ban QLDA Đường sắt (Bộ GTVT) đã lên tiếng xung quanh nội dung này.

Đường sắt Cát Linh – Hà Đông bị rỉ sét, có vết nứt
Một số vị trí ray đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông bị rỉ sét, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, theo kết luận của Hội đồng nghiệm thu Nhà nước.

Mở cửa tham quan nhà ga đường sắt Cát Linh – Hà Đông
Ban Quản lý dự án Đường sắt (Bộ GTVT) cho biết, sẽ tổ chức buổi lễ mở bạt đoàn tàu và mở cửa tham quan nhà ga La Khê vào sáng 20/5.

Đường sắt Cát Linh – Hà Đông lại lỗi hẹn?
Do nguồn vốn vay thêm từ ngân hàng China Eximbank (Trung Quốc) chậm nên dự án đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông có nguy cơ chậm tiến độ.

Vay thêm Trung Quốc 250 triệu USD cho đường sắt Cát Linh – Hà Đông
Khoản vay 250,62 triệu USD bổ sung cho dự án đã được thống nhất từ cách đây 3 năm…
Vũ Điệp
Cung cấp thông tin sai sự thât trên Facebook có thể bị phạt 10 triệu đồng
Vietnamnet.vn
Đây là một phần trong dự thảo nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin và an toàn thông tin mạng.
Kể từ năm 2018, Chính phủ sẽ tiến hành siết chặt các quy định về quản lý trong lĩnh vực công nghệ thông tin và bưu chính viễn thông. Đây là lý do dẫn đến sự ra đời của Dự thảo Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin mạng và an toàn thông tin mạng. Dự kiến Nghị định này sẽ có hiệu lực vào năm 2018, thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP và Điều 2 Nghị định 49/2017/NĐ-CP.
Có một điều đáng lưu ý khi bản dự thảo nghị định quy định khá chi tiết về các mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Trong số đó, có nhiều quy định gắn liền với việc quản lý các hoạt động trên mạng xã hội, vốn là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý do còn thiếu cơ sở về hành lang pháp lý.
Cụ thể hơn, nghị định này quy định chi tiết về việc đăng ký thông tin cá nhân chính xác khi sử dụng mạng xã hội. Bên cạnh đó, những hành vi sử dụng mạng xã hội vào mục đích đăng tải thông tin xuyên tạc, bịa đặt hoặc gây ảnh hưởng, xúc phạm đến danh dự cá nhân, tổ chức cũng sẽ bị pháp luật xử lý.
Theo đó, hành vi cung cấp thông tin không chính xác khi đăng ký thông tin cá nhân trên mạng xã hội sẽ bị xử phạt từ 2 – 5 triệu đồng. Trong trường hợp sử dụng thông tin cá nhân của người khác để tạo tài khoản trên mạng xã hội, hành vi này sẽ bị xử phạt với số tiền từ 10 – 20 triệu đồng.
Phạt tiền từ 5 – 10 triệu đồng đối với các hành vi sử dụng mạng xã hội để: Cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân;Cung cấp nội dung thông tin không phù hợp với lợi ích đất nước; Cung cấp bản đồ Việt Nam không thể hiện đầy đủ hoặc thể hiện sai chủ quyền quốc gia;Cung cấp các tác phẩm đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu; tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bị cấm; Cung cấp thông tin kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, lô đề, cờ bạc, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Trong trường hợp cố ý truy nhập trái phép tài khoản mạng xã hội của các cá nhân, tổ chức khác, người vi phạm sẽ phải đối mặt với khoản tiền phạt từ 30 – 50 triệu đồng.
Khi Nghị định mới được phê duyệt và triển khai, có thể dự báo trước về những tác động mạnh của nghị định này đối với thói quen sử dụng mạng xã hội của người Việt. Đặc biệt là khi, mạng xã hội đang ngày càng trở nên phức tạp và xuất hiện nhiều biến tướng theo chiều hướng xấu.
Tuấn Nghĩa
Mọi công dân đều có quyền được nhận xét, góp ý về bất cứ dịch vụ công nào, kể cả với Chính phủ thì bệnh viện tỉnh đã là cái gì mà không được góp ý.
Bạch Hoàn
“Nói thật, thái độ phục vụ của Bệnh viện đa khoa khu vực Đồng Tháp Mười rất kém. Từ bác sĩ, nhân viên, y tá trong bệnh viện, nói chuyện nạt 1 nạt 2, làm như cha mẹ thiên hạ vậy, nên chấn chỉnh lại đi các ông bà. Làm nghề này nên coi trọng lại đạo đức của mình đi”.
Ngày 5-3, một học sinh trường THPT Kiến Tường, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An post status trên lên facebook cá nhân.
Ngày 6-3, Ban giám hiệu trường THPT Kiến Tường đã mời em học sinh lên làm việc về nội dung status ấy.
Ngày 16-3, Ban giám hiệu trường Kiến Tường ra quyết định kỷ luật với hình thức khiển trách vì em học sinh kia đã có hành vi làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín đội ngũ cán bộ y bác sĩ Bệnh viện đa khoa khu vực Đồng Tháp Mười trên mạng xã hội Facebook.
Thứ nhất, mọi công dân đều có quyền được nhận xét, góp ý về bất cứ dịch vụ công nào, kể cả với Chính phủ thì bệnh viện tỉnh đã là cái gì mà không được góp ý.
Thứ 2, phải xem xét nhận xét của học sinh đúng hay sai. Nếu đúng thì lời nhận xét đó đã góp phần vào việc thúc đẩy cải thiện dịch vụ từ những người có trách nhiệm, em học sinh này nên được ngợi khen. Nếu chưa đúng hiện trạng, phải xem xét có phải là tình huống cá biệt mà học sinh gặp hay không hoặc có phải học sinh cố tình bôi nhọ hay không. Chỉ khi kết luận được học sinh có động cơ cá nhân, cố tình bôi nhọ, thông tin sai sự thật, thì Ban giám hiệu trường Kiến Tường mới có thể tính tiếp các biện pháp xử lý.
Thứ 3, một nền giáo dục triệt tiêu sự phản biện của học sinh là một nền giáo dục không có tương lai. Vậy nên, hạnh kiểm tốt hay trung bình ở tình huống này không quan trọng nữa. Những con cừu, dù có hạnh kiểm tốt thì đến một ngày cũng bị cắt sạch bộ lông.
Các hình thức nhà nước pháp trị
Trần Thanh Hiệp
Bài viết sau đây bàn về 3 kiểu Nhà nước pháp trị phương Tây: Rule of law (Anh), Due process of law (Mỹ), État de droit (Pháp) và Rechtsstaat (Đức) để bạn đọc tham khảo.
Nhà nước pháp trị ở phương Tây là sản phẩm của một nền văn hóa, phải nói cổ truyền, về nhân bản, chính trị, tự do, pháp luật, có hàng ngàn năm tuổi thọ của văn hóa Hy Lạp La Mã. Nền văn hóa ấy, trải qua các thời đại, đã kết tinh thành một luồng tư tưởng pháp trị phương Tây rất phong phú, thể hiện qua nhiều kiểu Nhà nước pháp trị. Xin nói sơ qua, bằng tóm lược, về ba kiểu Nhà nước pháp trị phương Tây: Rule of law (Anh), Due process of law (Mỹ), État de droit (Pháp) và Rechtsstaat (Đức), theo thứ tự xuất hiện của chúng trong lịch sử.
1. Nhà nước pháp trị kiểu Anh : Rule of law
Tư tuởng pháp trị đã manh nha rất sớm tại nước Anh và có một quá trình phát triển rất dài qua các thời đại. Khởi đầu là nhu cầu chống những đặc quyền của nhà vua. Một số thời điểm ngày nay đã được ghi khắc như những dấu mốc lịch sử của quá trình phát triển ấy. Đó là năm 1215 với Đại Hiến chương Magna Carta 15 6 1215, (văn kiện được coi như đã mở đường cho các quyền tự do của con người ở Anh và ngày nay được cả thế giới lý tưởng hóa thành một biểu tượng lịch sử về tranh đấu nhân quyền. Đọc thêm Guy Lagelée và Gilles Manceron, La conquête mondiale des droits de l’homme, le cherche midi éditeur / Éditions UNESCO, Paris, 1998), năm 1628 với Petition of Rights (Thỉnh nguyện thư quyền lợi), năm 1679 với Habeas Corpus Act (Luật Bảo thân), năm 1689 với Bill of Rights (Tuyên ngôn nhân quyền), năm 1832 với Reform Act (Luật về Cải cách), các năm 1911, 1949 với Parliament Act (Luật về Nghị Viện) v.v…Đặc tính chung của các bản văn kiện này là từng bước gíới hạn quyền của nhà vua để trao dần dần rồi gần như tất cả quyền cho Nghị viện. Ngoài ra còn nhiều tục lệ ngăn ngừa không để cho nhà vua can thiệp vào sinh hoạt chính trị chung. Theo nhận định của giới chuyên nghiên cứu về Anh quốc thì mặc dù cuộc chống đối đặc quyền của nhà vua kéo dài thế kỷ này qua thế kỷ khác nhưng đời sống chính trị tại nước Anh tương đối ổn định và trong khoảng từ thế kỷ 14 cho đến thế kỷ 17, chế độ pháp trị tại Anh Quốc có thể coi như đã định hình và cung cấp cho thế giới một kiểu Nhà nước pháp trị ‘’Rule of law” (thượng tôn pháp luật) trong đó vua, chính phủ cũng như dân đều phải tôn trọng pháp luật như một giá trị có hiệu lực cao nhất. Tinh thần trọng pháp này, thật ra, không phải chỉ ở nước Anh mới có. Nhưng nước Anh đã dành cho tinh thần ấy một địa vị đặc biệt khiến cho nền văn hóa chính trị ở nước Anh mang nét đặc thù có tính khuôn mẫu cho cả nhân loại.
Có ba yếu tố cấu thành nét đặc thù ấy:
Yếu tố thứ nhất là chủ thuyết ‘’Tự do dưới Pháp luật”. Người có nhiều ảnh hưởng trong chủ thuyết này là John Locke, sinh năm 1632, tác giả của một tác phẩm chính trị nổi tiếng, gồm hai thiên Khảo luận về Chính quyền (Two treatises of Government). Theo Locke, muốn hiểu rõ được thế nào là tự do, thế nào là pháp luật thì nên trở về nguồn gốc của chúng là giai đoạn loài người tuy đã sống thành xã hội, nhưng vẫn còn ở trong trạng thái tự nhiên. Mọi luật lệ đều xuất phát từ hoàn cảnh này, trong đó con người, nhờ lý trí, tự mình hiểu rõ không cần phải có ai ép buộc, những gì mình có quyền và những gì mình không có quyền làm. Từ cơ sở đó, Locke luận ra rằng tự do không phải là muốn làm gì cũng được mà là ở vào một tình thế không bị tha nhân áp bức. Tự do không phải là một ‘’quyền” mà là một ‘’quan hệ xã hội”. Thứ tự do này là thứ tự do tự nhiên của con người. Còn về pháp luật, quan điểm của Locke khá độc đáo. Theo Locke, pháp luật không phải là ‘’mệnh lệnh” mà là ‘’kiến thức”. Pháp luật có khả năng nhận thức nên nó hướng dẫn con người biết sử sự ra sao đối với đồng loại. Quan niệm nhận thức của Locke về pháp luật trái ngược với xu hướng đương thời, coi pháp luật là sức mạnh có khả năng bắt con người vì sợ hãi phải tuân theo. Pháp luật, bởi là nhận thức, nên nó giúp cải thiện quan hệ giữa người với người, tránh cho những quan hệ này không hoàn toàn bị bạo lực chi phối nhờ có sự điều hợp của lý trí. Như vậy, từ nguồn gốc, tự do và pháp luật đã liên hệ qua lại mật thiết với nhau, dường như theo một quy luật tự nhiên ‘’Ở đâu có pháp luật, ở đó có tự do”. Nói cách khác, tự do cần có pháp luật để triển khai và pháp luật, tự bản chất của nó, không đàn áp, bóp nghẹt tự do. Sự tin tưởng vững chắc và lâu đời vào mối tương quan giữa pháp luật và tự do này đã đưa tới nền pháp trị ‘’Rule of law” tự do dưới pháp luật mà chỉ ở nước Anh mới thấy có. Vì pháp luật ở nước Anh có phẩm chất cao, người Anh, kể cả nhà vua, biết thực sự tôn trọng tự do của con ngừời.
Yếu tố thứ hai là những định chế mềm dẻo, kết hợp tục lệ với quy tắc thành văn, có nghị viện với quyền lực cao nhất nhưng cũng có vua chỉ trị vì mà không cầm quyền , không có tam quyền phân lập bằng một Hiến pháp cứng rắn nhưng cũng không vì vậy mà có tập quyền tập trung, đối lập được công nhận là hợp pháp và được hưởng những đặc quyền vì tư cách đối lập một hình thức phân quyền thực tế giữa thiểu số với đa số trong nghị viện , sinh hoạt chính trị cả nước được điều lý bằng quy tắc thành văn cũng như quy ước hiến định bất thành văn, mà mọi bên hữu quan đều tôn trọng với tinh thần tự giác pháp luật là một nhận thức.
Yếu tố thứ ba là một ngành tư pháp hoàn toàn độc lập, nhờ sự xét xử, cũng rất độc lập, của các thẩm phán không xử theo chỉ thị, chỉ theo pháp luật không bao giờ là công cụ trấn áp mà là những nhận thức của con người tự giác, tự ý thức được quyền hạn của mình để không tự đặt mình ra ngoài vòng pháp luật, xâm phạm vào quyền của người khác. Một đặc điểm khác nữa là trước pháp luật, nhà vua hay dân thường, kẻ thống trị cũng như người bị trị, đều ngang nhau. Tòa án không bao giờ vi phạm sự bình đẳng đó, bất kỳ dưới hình thức nào. Pháp luật cho phép tòa án ‘’thường”, có thẩm quyền xử những vụ ‘’Tranh tụng với Triều đình” (Crown proceedings). Từ giữa thế kỷ 19, những vụ kiện này diễn ra dưới những hình thức ‘’thỉnh nguyện” để ‘’xin” được công nhận quyền lợi. Nhưng từ năm 1974, nhờ có Crown proceedings Act (Luật về Tranh tụng với Triều Đình) được ban hành, hình thức thỉnh nguyện đã được thay thế bằng thủ tục tranh tụng thông thường. Thật ra quyền tranh tụng này là một hình thức đã được thuần thục hóa, rồi hợp lý hóa, của quyền nổi loạn là quyền của dân được chống lại, nếu cần, bằng vũ lực, những người cai trị một khi họ áp bức dân. Tức là quyền trở lại trạng thái tự nhiên, để làm cách mạng mà tự vệ, thay đổi cuộc sống, như đã nổ ra cuối thế kỷ 18, ở Mỹ và ở Pháp. Tuy nhiên, không muốn thay đổi như cảnh giết vua Charles I năm 1649, Locke đã cổ vũ chủ trương thuần thục hoá quyền nổi loạn, không để nó nhất thiết phải đi vào con đường đổ máu. Cái được gọi là Cuộc Cách mạng Vinh quang 1688 (Glorious revolution) [không đổ máu] ở Anh, với sự thoái vị tự ý của vua Jacques II để nhường ngôi cho con rể, Guillaume III, người đã chịu chấp nhận nền quân chủ lập hiến, là một tiền lệ về quyền nổi loạn thuần thục hóa. Cách nhìn vấn đề như thế đã thúc đẩy tư tuởng pháp trị Rule of law của Anh ngày thêm phong phú, vượt qua được các thách đố của lịch sử (23). Bài học đầy tính thời sự của tư tưởng này là chế độ chính trị nào cũng chấp nhận được, nếu nó thực hành Rule of law trên cơ sở ‘’Tự do dưới pháp luật”. Hai nguyên tắc đã biểu thị rõ thêm Tự do ấy là: ‘’Không có tội, không có hình phạt, nếu không có luật” (Nullum crimen, nulla poena sine lege) và ‘’Ở đâu không có luật, ở đó không có sự phạm tội” (Ubi non est lex ibi non est transgressio).
2. Nhà nước pháp trị kiểu Mỹ: Due process of law
Due process of law là một cụm từ trích trong hai câu, một ở tu chính án thứ 5 và một, ở tu chính án thứ 14 của Hiến pháp Mỹ để đặt ra một nguyên tắc xét xử cho các tòa án Mỹ. Hai câu đó đều nói rằng : ‘’Không ai có thể bị tước đoạt sự sống, tự do hay quyền sở hữu nếu thủ tục triển khai của pháp luật đã không được tôn trọng” (24). Nguyên tắc dự liệu nơi tu chính án thứ 5 chỉ đối dụng với những hành vi của chính phủ liên bang, còn nguyên tắc ghi trong tu chính án thứ 14 thì nhắm đối tượng là những hành vi của các chính quyền tiểu bang. Due process of law là một nguyên tắc để dựa vào đó tòa án Mỹ kiểm sát xem trong việc chính quyền liên bang cũng như chính quyền tiểu bang áp dụng và làm luật, trên địa hạt quyền cơ bản của con người, có tôn trọng sự công bằng (fairness) hay không. Thật ra due process of law không phải là một nguyên tắc pháp lý chi phối toàn bộ sinh hoạt chính trị nước Mỹ. Nhưng vì nó có thể coi như một đặc trưng của tư tưởng pháp trị của Mỹ nên người ta mượn nó để gọi tên Nhà nước pháp trị ở Mỹ. Xét cho cùng, Due process of law của Mỹ cũng là Rule of law của Anh nhưng đã được bổ sung khi đưa vào áp dụng trong môi trường Mỹ. Due process of law dã đẩy xa thêm biên giới của Rule of law khi tòa án Mỹ đi vào nội dung của luật để kiểm sát hiến tính của nó, điều mà tòa án ở Anh không làm vì không muốn can thiệp vào quyền làm luật của nghị viện. Vì vậy mà Due process of law đã có hai thủ tục để kiểm sát hiến tính về mặt hình thức (procedural due process of law) và về mặt nội dung (substantial process of law).
Nhu cầu của người Mỹ bổ sung tư tưởng pháp trị của Anh không phải chỉ giới hạn trong phạm vi tòa án. Nó rất sâu và rộng, tới mức xây dựng được cho người Mỹ cả một nền văn hóa pháp lý có bản sắc đặc thù so với chính quốc. Dưới con mắt quan sát tinh tế của nhà ngoại giao pháp Alexis de Tocqueville, người đã viết ra tác phẩm nổi tiếng ‘’De la démocratie en Amérique” (Về dân chủ ở nước Mỹ), thì những hạt giống dân chủ mọc cằn cỗi trên đất già nua châu Âu đã nẩy mầm tốt tươi trên đất mới đầy màu mỡ châu Mỹ.
Làm cột trụ cho việc xây dựng và bồi đắp nền dân chủ mới này chính là chủ trương pháp trị Rule of law của nước Anh với ba bổ sung lớn, do đóng góp của những di dân kéo nhau sang lập nghiệp tại châu Mỹ.
Trước hết là sáng kiến điều chỉnh lại ý niệm đại diện trong chính trị. Tình trạng những người ở các thuộc địa xa xôi ở châu Mỹ không có đại diện thật sự trong Nghị viện ở Luân Đôn mà vẫn được kể như có đại diện và phải đóng thuế đã đưa những di dân này tới chỗ bác bỏ lối ‘’đại diện ảo”,‘’người đại diện ảo” và lên án tính cách độc đoán, chuyên chế của biện pháp chính trị không đếm xỉa gì tới người dân như vậy. Thực tế bất công này đã đẻ ra nhu cầu phải đặt lại vấn đề đại diện rồi từ đó yêu sách rằng đại biểu ở quốc hội phải là người do dân ở các thuộc địa tuyển chọn và phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước dân, nếu không, theo quan điểm của Locke, những người dân này không bị ràng buộc bởi những quyết định của những đại diện ‘’ảo”. Và vì vậy nguyên tắc đại diện ‘’thật” này đã được ghi vào những văn bản pháp lý của các tiểu bang như những quy tắc thành văn.
Mặt khác, trong cuộc tranh chấp với chính quốc, những dân ở thuộc địa bỗng khám phá ra rằng họ không có những văn bản trên đó đã được ghi chép minh bạch những nguyên tắc khả dĩ có thể dùng làm cơ sở cho các yêu sách họ đưa ra cho chính quốc. Vì thế, họ có nhu cầu bức thiết cần phải có một bản Hiến pháp thành văn, trong đó đã được minh định những nguyên tắc lập quốc và trị quốc. Hiến pháp này không thể do nghị viện thảo ra vì nghị viện chỉ là cơ quan để làm các luật thường, những luật phải chịu sự chi phối của Hiến pháp. Nếu cứ để cho nghị viện muốn làm luật ra sao cũng được thì sẽ có thể xảy ra tệ nạn nghị viện tự quyền để lạm quyền. Cho nên phải đặt ra một số nguyên tắc cao hơn luật thường, và bất khả xâm phạm để có tiêu chuẩn phán đoán mỗi khi tranh chấp xẩy ra. Những nguyên tắc này sẽ dược đăng ký ở hai nơi. Một nơi là loại tuyên ngôn long trọng, có mục đích xác định rằng những điều ghi trong đó không do nhà vua hay nghị viên lập ra và ban bố. Nó phải được coi như một thứ luật tự nhiên, và nó sẽ có giá trị của một quy phạm lý tưởng thường trực, ở trên các luật thường. Một nơi khác nữa là một bản Hiến pháp thành văn, được soạn thảo theo một thủ tục đặc biệt và được thông qua cũng bằng một hội nghị đặc biệt. Một bản Hiến pháp cứng rắn với tam quyền phân lập rõ rệt về mặt nguyên tắc nhưng trong thực tế kìm giữ lẫn nhau, làm đối trọng cho nhau. Người ta hiểu vì sao khi lập quốc, nước Mỹ đã có sẵn những Tuyên ngôn về nhân quyền, về độc lập v.v…để làm cơ sở cho một bản Hiến pháp ngày nay đã trên hai trăm tuổi đời.
Sau hết là khái niệm kiểm sát hiến tính bằng đường lối tài phán. Chẳng mấy chốc sau thời kỳ lập quốc này, người ta bỗng nhận thấy rằng chỉ ra Tuyên ngôn nhân quyền, ban hành Hiến pháp thành văn không thôi vẫn chưa đủ. Quốc hội của các tiểu bang thường hay có xu hướng lạm dụng trong việc hành sử những quyền hiến định. Có tới hơn nửa tổng số các tiểu bang đã dùng thủ tục làm luật thường để thay đổi bản chất của hiến pháp và không có một cơ chế hiến định nào có khả năng ngăn ngừa hiện tượng này. Vậy phải trù liệu cơ chế đó để bảo vệ cho rộng khắp các nhân quyền. Và do đó khái niệm kiểm sát hiến tính bằng đường lối tài phán được đưa ra thực hành. Alexander Hamilton, một trong những bậc ‘’quốc phụ” (founding fathers) của Mỹ đã đề ra nguyên tắc: ‘’Mỗi khi có tranh chấp giữa hiến pháp và luật thì bổn phận của tòa án là phải theo hiến pháp chứ không theo luật”. Một vị quốc phụ khác, James Madison, còn đi xa hơn nữa: ‘’Các tòa án phải tự coi như mình có thiên hướng bảo vệ nhân quyền; tòa án là thành lũy kiên cố để ngăn chặn không cho lập pháp hay hành pháp lấn quyền”.
Cần nhấn mạnh rằng khi nói có một kiểu Nhà nước pháp trị Mỹ là ngụ ý nói sinh hoạt chính trị của nước này dựa trên nền tảng tinh thần pháp trị ‘’thượng tôn pháp luật, Due process of law” (tức là Rule of law bổ sung). Ở Mỹ, Nhà nước chỉ giữ một vai trò thứ yếu, sinh hoạt chính trị của người dân Mỹ, nói chung, không mang tính chất vĩ mô Nhà nước mà mang tính chất vi mô (micro politique) của cá nhân hay cơ cấu trong xã hội dân sự (25). Vậy ta nên hiểu cụm từ Nhà nước pháp trị kiểu Mỹ theo nghĩa một sự biểu hiện nhiều mặt, sống động, liên tục, của tư tưởng pháp trị chứ không phải của Nhà nước pháp trị, Due process of law.
3. Nhà nước pháp trị kiểu Pháp và Đức : État de droit, Rechtsstaat.
Bàn về Nhà nước pháp trị ở Pháp (État de droit) hay ở Đức (Rechtsstraat) là tiếp xúc với một mạch tư tưởng pháp trị ở châu Âu có nhiều khác biệt với chủ trương Rule of law ở Anh. Châu Âu vốn có tiếng là cái nôi của nền văn hóa pháp trị lục địa mà Pháp và Đức là hai vùng cùng chung một mức độ phát triển. Từ thế kỷ 19, cả hai nước Pháp và Đức đều đã là những Nhà nước pháp định (État légal) cai trị với tinh thần trọng pháp, tuy chưa hẳn là một Nhà nước pháp trị. Năm 1920, giáo sư luật học người Pháp, Carré de Malberg, lần đầu tiên du nhập vào trường đại học Pháp khái niệm Rechsstaat của Đức đã được đề xuất tại nước này từ cuối thế kỷ 19. Nhưng sáng kiến của Carré de Malberg không được giới luật học ở Pháp hưởng ứng. Nhà nước ở Pháp vẫn không chịu vượt qua lằn ranh pháp định vì xu hướng pháp luật tập trung (légicentrisme) vẫn chiếm ưu thế trong xã hội Pháp. Phải đợi tới năm 1971, với sự đột xuất của Hội đồng Bảo hiến (Conseil Constitutionnel) trong vai trò kiểm sát tích cực hiến tính, thì mới có thể nói rằng Nhà nước Pháp trị chính danh đã thực tế hiện hữu ở Pháp. Tại Đức, sự chào đời của Nhà nước pháp trị xảy ra sớm hơn, 4 năm sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai chấm dứt. Hiến pháp Cộng Hòa Liên Bang Đức 1949, ở điều 28 có nói rằng nước Đức là một Nhà nước pháp trị, theo như được định nghĩa trong Hiến pháp này mà Nhà nước, hơn ai hết, phải tuân phục hiệu lực. Như vậy là Nhà nước pháp định, ở Pháp cũng như ở Đức, đã được nâng cấp lên thành Nhà nước pháp trị nhờ có hai thay đổi cơ bản, đó là Hiến pháp được đưa lên hàng đầu của thứ bậc quy phạm và việc kiểm sát hiến tính của luật đã theo đường lối tài phán ở Đức và bán tài phán ở Pháp (nhưng về mặt thực hiệu [effectivité] thì cùng không còn tình trạng pháp luật tập trung như trước nữa). Dĩ nhiên, hai Nhà nước pháp trị ở Đức và ở Pháp không hoàn toàn giống nhau về mọi mặt, nhưng trên đại thể, thì Nhà nước hiện nay ở đó là một Nhà nước hạn chế về quyền lực, và công cụ để hạn chế là Hiến pháp; cứu cánh của việc hạn chế là sự tôn trọng có bảo đảm, một cách thực hiệu, nhân quyền và công dân quyền. Nói tóm lại, con người dưới hai chế độ dân chủ ở Pháp và ở Đức được sống trong tình trạng an toàn pháp lý. Chế độ chính trị ở hai nước này, tới giai đoạn Nhà nước pháp trị 1949 và 1971, có thể coi như đã được hợp lý hóa (rationalisé) tới cao độ, nhờ một cơ chế chính trị pháp luật không do tự nhiên hoặc do quan hệ sản xuất kinh tế mà có, mà là một hành vi ý chí (volonté) kết hợp với lý trí (raison) của hai xã hội có văn hóa, văn minh. Tất cả những cố gắng về mặt pháp luật để đi tới tiến bộ Nhà nước pháp trị ở Đức, ở Pháp điều có nơi gọi là tăng cường pháp chế không phải chỉ là những lao động chuyên môn pháp điển hóa các quy phạm pháp lý, mà là hành vi hợp lý hóa bộ máy Nhà nước để cơ chế của nó vận hành theo chiều hướng của hiến trị (constitutionnalisme), phòng chống không để cho Nhà nước sang đoạt dân chủ biến nó thành chuyên chế.
Nguồn:https://www.doimoi.org/detailsnews/1791/343/cac-hinh-thuc-nha-nuoc-phap-tri.html
Liên đoàn Luật sư VN ngay từ ngày thành lập vào năm 2009 đã lộ rõ chân tướng là nô tài của đảng cầm quyền.
Lê Công Định và Vu Hai Tran.
Nghe kể lại, không biết vì lý do hay áp lực gì mà dự định của một nhóm luật sư tổ chức buổi hội thảo về dự luật sửa đổi Điều 19.3 BLHS buộc luật sư tố giác thân chủ bị huỷ bỏ hôm qua. Sáng nay Liên đoàn Luật sư VN lại viện đủ lý do không cho mượn phòng họp để tổ chức hội thảo.
Liên đoàn Luật sư VN ngay từ ngày thành lập vào năm 2009 đã lộ rõ chân tướng là nô tài của đảng cầm quyền trong việc ghìm cương các luật sư mà thôi.
Cho đến nay, ngoại trừ luật sư Nguyễn Văn Chiến, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Hà Nội và Đại biểu Quốc hội, lên tiếng công khai phản đối dự luật nói trên, các Chủ nhiệm của các Đoàn Luật sư tỉnh thành còn lại đều im lặng chờ xem tình hình.
Một luật sư trẻ khi trò chuyện với tôi đã bày tỏ nỗi thất vọng trước việc các công ty luật lớn nhất của Việt Nam cũng im lặng trong sự kiện nghiêm trọng này đối với nghề luật sư ở Việt Nam. Tôi đành biện minh dùm các công ty luật lớn, rằng nếu không im lặng họ sẽ cầm chắc số phận không còn là những công ty luật lớn nữa.
Luật sư Nguyễn Huy Thiệp, chủ nhiệm Uỷ ban Bảo vệ quyền lợi luật sư – LĐLS Việt Nam vừa gửi mail cho tôi nội dung công văn đề nghị Thường trực LĐLS Việt Nam xem xét bố trí phòng họp tại trụ sở LĐLS vào thứ bảy 3/6/2017 để toạ đàm về điều 19.3 BLHS, (kể cả buổi tối, nếu cần).
LIÊN ĐOÀN LUẬT SƯ VIỆT NAM
ỦY BAN BẢO VỆ QUYỀN LỢI LUẬT SƯ
Số: 02 /2017/TTr-UBBVQLLS
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 02 tháng 6 năm 2017
TỜ TRÌNH
V/v đề xuất cho một nhóm Luật sư tham gia tố tụng trong lĩnh vực hình sự đại diện là Luật sư Trần Vũ Hải sử dụng phòng họp của Liên đoàn để tổ chức Hội thảo về khoản 3 Điều 19 BLHS 2015
Kính gửi:
– Thường trực Liên đoàn Luật sư Việt Nam;
Đồng kính gửi:
– Tổng Thư ký Liên đoàn Luật sư Việt Nam;
– Chánh Văn phòng Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Ngày 01/6/2017, Ủy ban bảo vệ quyền lợi luật sư nhận được yêu cầu của một nhóm luật sư do Luật sư Trần Vũ Hải đại diện, đề nghị Ủy ban có ý kiến tới Thường trực Liên đoàn, Tổng Thư ký, Chánh Văn phòng Liên đoàn Luật sư Việt Nam về việc cho phép nhóm luật sư này được sử dụng phòng họp của Liên đoàn Luật sư Việt Nam vào ngày thứ bảy 3/6/2017 (kể cả vào buổi tối nếu trong ngày không có phòng trống) để tổ chức hội thảo đóng góp ý kiến về khoản 3 Điều 19 Bộ luật hình sự 2015.
Nhận thấy đề nghị của nhóm Luật sư nêu trên là chính đáng, trong khi dự thảo quy định của Bộ luật hình sự 2015 về Điều này có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động hành nghề cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của đội ngũ luật sư nói chung; việc có tiếng nói tập thể của đội ngũ luật sư tham gia hoạt động hành nghề trong thực tiễn đóng góp ý kiến về điều luật này là cần thiết, vì đó là tiếng nói của thực tiễn, qua đó góp phần giúp cho Ban soạn thảo nhìn nhận, đánh giá sát với thực tế hơn.
Vì vậy, Ủy ban Bảo vệ quyền lợi luật sư báo cáo Thường trực Liên đoàn, Tổng Thư ký, Chánh Văn phòng Liên đoàn Luật sư Việt Nam xem xét, quyết định sớm về yêu cầu nêu trên.
Trân trọng.
TM. ỦY BAN BVQLLS
CHỦ NHIỆM
Luật sư Nguyễn Huy Thiệp
Ý kiến của Thường trực Liên đoàn

Quá buồn về hiểu biết nông cạn của bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội

“Ở đây tôi hiểu nên giới hạn trong tội nào, chứ đúng là luật sư cứ đi tố giác thân chủ thì không được . Nhưng cũng phải giới hạn tội nào thì anh không thể làm ngơ được. Nếu tôi là luật sư, tôi bào chữa cho thân chủ phạm tội giết người, công tố nói cố ý giết người thì tôi cố gắng bảo vệ thành vô ý giết người để giảm nhẹ tội. Hay như một thân chủ bị ghép tội trốn thuế, trốn thuế là có tội, luật sư cố bảo vệ thành né thuế cho giảm nhẹ tội, để lách tội, như thế thì được, chứ biết thân chủ phạm tội rất nghiêm trọng mà không tố giác thì hoàn thành nghĩa vụ luật sư của mình, nhưng với rất nhiều người, nó ảnh hưởng tới quốc gia, đất nước, tới nhiều người dân vô tội nữa, làm ngơ là không được”
https://dantri.com.vn/xa-hoi/tranh-luan-nay-lua-ve-quy-dinh-luat-su-to-cao-than-chu-20170527141223716.htm
Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư 1990
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ, 1990
(Được thông qua tại Hội nghị lần thứ tám về Phòng chống tội phạm và xử lý người phạm tội của Liên Hợp Quốc, họp tại Havana, Cuba, từ ngày 27/8 đến 7/9/1990).
Xét rằng, trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, các dân tộc trên thế giới khẳng định quyết tâm xây dựng những điều kiện để duy trì công lý và tuyên bố một trong những mục đích của họ là thực hiện hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo,
Xét rằng, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người đã trang trọng ghi nhận nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, quyền giả định vô tội, quyền được một tòa án độc lập và vô tư xét xử công bằng, công khai và mọi bảo đảm cần thiết để mọi người đều có quyền bào chữa khi bị cáo buộc phạm tội hình sự,
Xét rằng, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã công bố quyền được xét xử không chậm trễ và quyền được một tòa án có thẩm quyền, độc lập và vô tư, được lập ra theo pháp luật xét xử công bằng và công khai,
Xét rằng, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nhắc lại nghĩa vụ của các quốc gia theo Hiến chương là thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ các quyền và tự do cơ bản của con người trên toàn thế giới,
Xét rằng, Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người đang bị giam giữ hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình nào quy định rằng một người đang bị giam giữ phải có quyền được giúp đỡ, liên lạc, cũng như được tham khảo ý kiến luật sư.
Xét rằng, Những quy định tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử đối với tù nhân đặc biệt kiến nghị rằng các tù nhân chưa được xét xử phải được bảo đảm giúp đỡ về pháp lý và tiếp xúc riêng với luật sư,
Xét rằng, quy định về việc bảo vệ những người có thể bị kết án tử hình khẳng định rằng bất kỳ ai bị tình nghi hay bị cáo buộc phạm một tội có thể bị kết án tử hình đều được quyền nhận được sự trợ giúp đầy đủ về pháp lý trong mọi giai đoạn tố tụng, theo điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,
Xét rằng, Tuyên bố về các nguyên tắc công lý cơ bản đối với nạn nhân của tội phạm và lạm dụng quyền lực đã khuyến nghị các biện pháp cần được thực hiện ở cấp quốc tế và quốc gia để cải thiện điều kiện tiếp cận công lý và xử lý công bằng, phục hồi, bồi thường và hỗ trợ những nạn nhân của tội phạm,
Xét rằng, việc bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người mà mọi người đều có quyền được hưởng, dù đó là những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, hoặc dân sự và chính trị, yêu cầu mọi người phải được tiếp cận một cách có hiệu quả các dịch vụ pháp lý do một tổ chức chuyên môn pháp lý độc lập cung cấp,
Xét rằng, các hiệp hội luật sư chuyên nghiệp có một vai trò sống còn trong việc giữ vững những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, nhằm bảo vệ các hội viên khỏi bị truy bức, hạn chế và xâm phạm trái phép, cung cấp mọi dịch vụ pháp lý cho tất cả những người có nhu cầu và hợp tác với các cơ quan chính phủ và các cơ quan chức năng khác để đẩy mạnh thực hiện mục tiêu công lý và quyền lợi của công chúng.
Những nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư dưới đây, được xây dựng nhằm hỗ trợ các Quốc gia thành viên trong việc thúc đẩy và bảo đảm vai trò đúng đắn của luật sư, cần được các chính phủ tôn trọng và tham khảo trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn quốc gia và cần được thông báo cho luật sư cũng như những người khác như thẩm phán, công tố viên, thành viên của các cơ quan hành pháp, lập pháp và công chúng nói chung. Những nguyên tắc này cũng cần được áp dụng một cách thích hợp đối với những người thực hiện các chức năng của luật sư nhưng chưa được hưởng quy chế chính thức của luật sư.
TIẾP CẬN LUẬT SƯ VÀ DỊCH VỤ PHÁP LÝ
1. Mọi người đều có quyền yêu cầu sự giúp đỡ của luật sư theo sự lựa chọn của mình nhằm thiết lập và bảo vệ các quyền của mình đó trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự.
2. Các chính phủ phải bảo đảm những thủ tục hữu hiệu và các cơ chế nhanh chóng để việc tiếp cận luật sư có hiệu quả và bình đẳng cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và quyền tài phán của mình mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, như phân biệt đối xử trên cơ sở chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, thành phần kinh tế và những điều kiện khác.
3. Các chính phủ cần bảo đảm cung cấp đầy đủ kinh phí và những nguồn lực khác cho các dịch vụ pháp lý dành cho người nghèo và nếu cần thiết cho những người bị thiệt thòi khác. Các hiệp hội chuyên môn của luật sư phải phối hợp trong việc tổ chức cung cấp những dịch vụ, phương tiện và các nguồn lực khác.
4. Các chính phủ và hiệp hội chuyên môn của luật sư phải thúc đẩy những chương trình nhằm thông báo cho công chúng biết về những quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật và vai trò quan trọng của luật sư trong việc bảo vệ các tự do cơ bản của họ. Cần phải chú ý đặc biệt hơn trong việc giúp đỡ người nghèo và những người bị thiệt thòi khác, để họ có thể khẳng định các quyền của họ và kêu gọi sự giúp đỡ của luật sư khi cần thiết.
NHỮNG BẢO VỆ ĐẶC BIỆT TRONG CÁC VẤN ĐỀ TƯ PHÁP HÌNH SỰ
5. Các chính phủ phải bảo đảm rằng, mọi người đều được cơ quan chức năng có thẩm quyền thông báo ngay lập tức về quyền được một luật sư trợ giúp theo sự lựa chọn của họ, ngay khi bị bắt hay bị giam giữ hoặc khi bị cáo buộc phạm tội hình sự.
6. Bất cứ ai trong hoàn cảnh trên mà không có luật sư riêng, thì trong mọi trường hợp công lý đòi hỏi như vậy, đều có quyền có một luật sư có kinh nghiệm và năng lực phù hợp với tính chất của tội phạm đã quy kết cho họ để hỗ trợ pháp lý một cách hiệu quả, và miễn phí nếu họ không có đủ khả năng chi trả những dịch vụ như vậy.
7. Các chính phủ còn phải bảo đảm rằng, tất cả những người bị bắt hay bị giam, dù có bị cáo buộc phạm tội hình sự hay không, đều phải được nhanh chóng tiếp cận luật sư và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không chậm quá 48 giờ kể từ khi bị bắt hay bị giam.
8. Tất cả những người bị bắt, giam hay cầm tù phải được tạo ra các cơ hội, thời gian và phương tiện đầy đủ để luật sư đến thăm, và được trao đổi hay tư vấn hoàn toàn riêng với luật sư không chậm trễ, không bị theo dõi hay kiểm duyệt. Những cuộc tiếp xúc hay tư vấn như vậy, có thể được tiến hành trong tầm nhìn, nhưng không trong tầm nghe của các nhân viên thi hành luật pháp.
CÁC TIÊU CHUẨN CHUYÊN MÔN VÀ ĐÀO TẠO
9. Các chính phủ, những hiệp hội chuyên môn của luật sư và các cơ sở giáo dục phải bảo đảm rằng luật sư được giáo dục và đào tạo thích hợp, có ý thức về lý tưởng và nhiệm vụ mang tính đạo đức của người luật sư, về các quyền con người và những quyền tự do cơ bản được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế công nhận.
10. Các chính phủ, những hiệp hội chuyên môn của luật sư và các cơ sở giáo dục phải bảo đảm rằng, không có sự phân biệt đối xử đối với một người trong việc tham gia vào hay tiếp tục hành nghề luật sư vì lý do chủng tộc, màu da, giới tính, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, ngoại trừ yêu cầu luật sư phải là công dân của một quốc gia có liên quan không bị coi là phân biệt đối xử.
11. Ở những quốc gia có các nhóm, cộng đồng hay khu vực mà dịch vụ pháp lý không đáp ứng được nhu cầu của họ, đặc biệt ở những nơi mà các nhóm như vậy có nền tảng văn hóa, truyền thống hay ngôn ngữ khác biệt hay đã là nạn nhân của nạn phân biệt đối xử trước đây, thì các chính phủ, những hiệp hội chuyên môn của luật sư và các cơ sở giáo dục cần có các biện pháp đặc biệt để tạo cơ hội cho các ứng cử viên của những nhóm này tham gia vào nghề luật và cần đảm bảo rằng họ được đào tạo phù hợp với những nhu cầu của nhóm họ.
CÁC NHIỆM VỤ VÀ TRÁCH NHIỆM
12. Với tư cách là thành tố quan trọng trong thực hành tư pháp, luật sư phải luôn luôn gìn giữ danh dự và phẩm giá trong nghề nghiệp của họ.
13. Nhiệm vụ của luật sư đối với khách hàng của họ:
a. Tư vấn cho khách hàng về những quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ, về cơ chế làm việc của hệ thống pháp luật trong chừng mực có liên quan đến quyền và trách nhiệm pháp lý của khách hàng;
b. Giúp đỡ khách hàng bằng mọi cách thích hợp và tiến hành các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của họ;
c. Giúp đỡ khách hàng trước tòa án hay các cơ quan hành chính khi thích hợp.
14. Trong khi bảo vệ các quyền của khách hàng và thúc đẩy sự nghiệp vì công lý, luật sư phải tìm cách đề cao các quyền và các tự do cơ bản của con người được pháp luật quốc gia và quốc tế công nhận. Luật sư luôn luôn phải hành động tự do, cần mẫn phù hợp với pháp luật và những tiêu chuẩn đạo đức đã được công nhận của nghề luật.
15. Luật sư phải luôn tôn trọng một cách trung thành quyền lợi khách hàng của mình.
NHỮNG BẢO ĐẢM CHO HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG CỦA LUẬT SƯ
16. Các chính phủ phải bảo đảm rằng luật sư:
a. Có khả năng thực hiện tất cả các chức năng chuyên môn mà không bị đe dọa, cản trở, quấy rầy hoặc can thiệp trái phép;
b. Có thể đi lại, tiếp xúc, tư vấn với khách hàng một cách tự do cả trong nước và ngoài nước;
c. Không bị truy tố, hoặc bị đe dọa truy tố hay chịu bất kỳ chế tài hành chính, kinh tế hoặc chế tài khác về bất cứ hành động nào được thực hiện phù hợp với những nhiệm vụ, tiêu chuẩn và đạo đức nghề nghiệp đã được công nhận.
17. Khi an ninh của luật sư bị đe dọa do thực hiện các chức năng của họ, họ phải được các cơ quan chức năng bảo vệ một cách đầy đủ.
18. Không được đánh đồng luật sư với khách hàng của họ hay những công việc của khách hàng do thực hiện các chức năng của luật sư.
19. Mọi tòa án hay cơ quan hành chính mà ở đó quyền có luật sư bào chữa đã được công nhận đều không được phép phủ nhận quyền của luật sư được xuất hiện trước tòa hay cơ quan hành chính để bảo vệ khách hàng của mình, trừ khi luật sư đó không đủ tiêu chuẩn theo pháp luật và thực tiễn quốc gia và căn cứ vào những nguyên tắc này.
20. Luật sư phải được quyền miễn trách nhiệm dân sự và hình sự đối với những phát ngôn thiện chí trong lời bào chữa miệng hay bằng văn bản hay đối với sự xuất hiện nghề nghiệp của họ trước tòa hay trước cơ quan pháp luật hay hành chính.
21. Nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền chính là bảo đảm tạo điều kiện cho luật sư được tiếp cận những thông tin, hồ sơ và tài liệu thích hợp mà họ sở hữu hay có quyền kiểm soát trong khoảng thời gian đủ để luật sư có thể hỗ trợ khách hàng về pháp lý một cách có hiệu quả. Luật sư phải được tạo điều kiện tiếp cận như vậy vào thời điểm thuận lợi nhất.
22. Các chính phủ cần công nhận và tôn trọng rằng, tất cả các trao đổi và tư vấn giữa luật sư và khách hàng trong mối quan hệ nghề nghiệp của họ đều được giữ bí mật.
QUYỀN TỰ DO BIỂU ĐẠT VÀ GIAO KẾT
23. Cũng như những công dân khác, luật sư được hưởng quyền tự do biểu đạt, tín ngưỡng, kết giao và hội họp. Đặc biệt, họ phải có quyền tham gia các cuộc thảo luận công khai có liên quan đến pháp luật, trật tự tư pháp, việc tăng cường và bảo vệ quyền con người, quyền gia nhập hay thành lập các tổ chức địa phương, quốc gia hay quốc tế và tham dự những cuộc họp của những tổ chức ấy, mà không phải chịu một sự bất lợi nào về nghề nghiệp vì hoạt động hợp pháp của họ hay vì họ là thành viên của một tổ chức hợp pháp. Trong việc thực hiện các quyền này, luật sư phải luôn luôn xử sự theo pháp luật và những tiêu chuẩn, đạo đức nghề nghiệp đã được công nhận.
HIỆP HỘI CHUYÊN MÔN CỦA LUẬT SƯ
24. Luật sư có quyền lập và tham gia các hiệp hội chuyên môn tự quản để đại diện cho quyền lợi của họ, thúc đẩy việc giáo dục, đào tạo thường xuyên của họ và bảo vệ đạo đức nghề nghiệp của họ. Cơ quan chấp hành của các hiệp hội chuyên môn này phải do những thành viên bầu ra và thực hiện các chức năng mà không có sự can thiệp từ bên ngoài.
25. Những hiệp hội chuyên môn của luật sư phải hợp tác với chính phủ để đảm bảo rằng, mọi người đều được tiếp cận các dịch vụ pháp lý một cách bình đẳng và có hiệu quả, và rằng luật sư có thể bào chữa và hỗ trợ khách hàng theo đúng pháp luật và những tiêu chuẩn, đạo đức nghề nghiệp đã được công nhận mà không có sự can thiệp trái phép.
CÁC THỦ TỤC KỶ LUẬT
26. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư phải được quy định bởi pháp luật bởi những người trong ngành luật thông qua những cơ quan thích hợp, theo đúng pháp luật và thực tiễn quốc gia, các tiêu chuẩn và quy phạm quốc tế đã được công nhận.
27. Những lời buộc tội hay khiếu nại về khả năng chuyên môn của luật sư phải được xử lý nhanh chóng và đúng mức theo các thủ tục thích hợp. Luật sư phải có quyền được phân xử một cách công minh, gồm cả quyền được có một luật sư do họ lựa chọn giúp đỡ.
28. Những thủ tục kỷ luật đối với luật sư phải được đưa ra trước một hội đồng kỷ luật khách quan do những người trong ngành pháp luật thành lập, hoặc trước một cơ quan chức năng độc lập được thành lập theo pháp luật, hay trước một tòa án và có thể được xem xét lại về pháp luật một cách độc lập.
29. Những thủ tục kỷ luật được quyết định theo đúng quy ước đạo đức nghề nghiệp và những tiêu chuẩn đạo đức đã được công nhận của ngành luật và của những nguyên tắc này.
LUẬT SƯ TỐ GIÁC THÂN CHỦ – LUẬT QUỐC TẾ KHÔNG CÔNG NHẬN CHO HÀNH VI NÀY
Phạm Lê Vương Các
Liên Hợp Quốc đã thông qua CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ vào năm 1990, trong đó quy định rõ:
Điều 1. Mọi người đều có quyền yêu cầu sự giúp đỡ của luật sư theo sự lựa chọn của mình nhằm thiết lập và bảo vệ các quyền của mình trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự.
Quy định này có nghĩa là trong tố tụng hình sự luật sư đóng vai trò là người giúp đỡ, bảo vệ cho thân chủ của mình, chứ không nhằm chống lại thân chủ của mình dưới bất kỳ hình thức nào. Quy định quyền yêu cầu sự giúp đỡ của luật sư là một sự công nhận “quyền có luật sư” không thể bị tước đoạt của tất cả mọ người. Mọi người đều có quyền yêu cầu luật sư bảo vệ cho quyền của mình chứ không phải yêu cầu luật sư để chống lại các quyền của mình. Luật sư nào lợi dụng sự trợ giúp này nhằm chống lại các quyền của thân chủ là đã vi phạm vào “quyền có luật sư”. Một khi “quyền có luật sư” bị tước đoạt thì khi đó không tồn tại một luật sư đúng nghĩa – nếu có cũng chỉ là dạng luật sư trá hình – làm công cụ tay sai cho các cơ quan tố tụng hình sự.
Điều 15. Luật sư phải luôn tôn trọng một cách trung thành quyền lợi khách hàng của mình.
Quy định này đồng nghĩa với việc không cho phép luật sư làm những việc trái với lợi ích khách hàng. Luật sư nào có hành vi tố cáo khách hàng của mình rõ ràng đã phản bội nghiêm trọng lại lợi ích và niềm tin của khách hàng của mình – và không còn xứng đáng với thiên chức luật sư.
Điều 16. Các chính phủ phải bảo đảm rằng luật sư: (c) Không bị truy tố, hoặc bị đe dọa truy tố hay chịu bất kỳ chế tài hành chính, kinh tế hoặc chế tài khác về bất cứ hành động nào được thực hiện phù hợp với những nhiệm vụ, tiêu chuẩn và đạo đức nghề nghiệp đã được công nhận.
Và Điều 20. Luật sư phải được quyền miễn trách nhiệm dân sự và hình sự đối với những phát ngôn thiện chí trong lời bào chữa miệng hay bằng văn bản hay đối với sự xuất hiện nghề nghiệp của họ trước tòa hay trước cơ quan pháp luật hay hành chính.
Quy định này của Liên hợp Quốc là rất tiến bộ để bảo vệ luật sư không phải bị đe dọa hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì các hoạt động liên quan đến nghề nghiệp của họ. Chẳng hạn như tại Việt Nam, luật sư hỗ trợ các nạn nhân bị thiệt hại làm đơn khởi kiện Formosa ra tòa, chính phủ Việt Nam cho dù không thích việc khởi kiện này thì cũng không được phép cáo buộc luật sư đang kích động hay xúi giục người dân khởi kiện, hoặc tìm cách trả đũa nhắm vào các luật sư.
Trong hoạt động tố tụng, quy định này nhằm bảo vệ luật sư không phải chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào liên quan tới thông tin mà thân chủ cung cấp cho luật sư như không tố giác hành vi phạm tội của thân chủ. Việc quy định quyền “miễn trừ” trách nhiệm pháp lý như vậy rõ ràng là cần thiết để đảm bảo cho vị thế và vai trò của luật sư – một chủ thể quan trọng góp phần bảo vệ công lý và thúc đẩy nhân quyền. Và các chính phủ phải có trách nhiệm đảm bảo thực thi điều này trên thực tế như là một nghĩa vụ của quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc.
Điều 22. Các chính phủ cần công nhận và tôn trọng rằng, tất cả các trao đổi và tư vấn giữa luật sư và khách hàng trong mối quan hệ nghề nghiệp của họ đều được giữ bí mật.
Điều này có nghĩa rằng luật sư không được cung cấp thông tin trao đổi giữa luật sư và khách hàng cho bên thứ ba, kể cả việc cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan nhà nước nếu không có sự đồng ý của khách hàng. Quy định này cũng có nghĩa rằng các chính phủ không được có các biện pháp gây áp lực đối với luật sư để moi móc thông tin từ vụ án.
Bí mật giữa luật sư và thân chủ được bảo vệ ngay cả khi thân chủ đang bị bắt giam, được quy định cụ thể bằng Điều 8: “Những cuộc tiếp xúc hay tư vấn như vậy, có thể được tiến hành trong tầm nhìn, nhưng không trong tầm nghe của các nhân viên thi hành luật pháp.”
Chắc nhiều người khi xem các bộ phim nước ngoài thường thấy cảnh khi luật sư gặp gỡ nghi phạm (kể cả nghi phạm khủng bố) thì tất cả các nhân viên thi hành pháp luật phải đi ra khỏi phòng, đóng cửa lại và quan quan sát qua tấm kính trong suốt bên ngoài của buồng giam để theo dõi buổi tiếp xúc giữa luật sư và nghi phạm. Đây chính là là các quốc qua có hệ thống pháp luật đã áp dụng quy định bí mật giữa luật sư và thân chủ theo như điều 8 “trong tầm nhìn, nhưng không trong tầm nghe” là vậy đó.
Nói tóm lại, qua 6 điều khoản từ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ cho thấy, Luật quốc tế bảo vệ cho sự riêng tư và bí mật thông tin trao đổi giữa luật sư và thân chủ. Luật sư không phải chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào đối với thông tin mà thân chủ cung cấp liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của họ, và luật sư nào có hành vi tố giác thân chủ của mình là trái với nguyên tắc và tinh thần về vai trò cơ bản của luật sư. Vì vậy, Dự thảo Bộ Luật Hình Sự Việt Nam quy định luật sư phải chịu trách nhiệm hình sự nếu không tố giác hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng của thân chủ là rất xằng bậy, hoàn toàn trái ngược với tiêu chuẩn của luật quốc tế.