Home Blog Page 3

PRISONS WITHIN PRISONS

1
Torture and Ill-Treatment of Prisoners of Conscience in Viet Nam
Prisons Within Prisons-Executive Summary
+++
NHÀ TÙ TRONG NHÀ TÙ
Tra tấn và ngược đãi tù nhân lương tâm ở Việt Nam
“Khi họ bắt tôi, họ tống tôi vào một phòng giam tối tăm trong 10 tháng […] Tôi không thể đếm chính xác họ đã đánh tôi bao nhiêu lần, họ chỉ làm thế bất cứ khi nào họ muốn […] Họ nói với tôi rằng tất cả những điều này là vì tội ác của tôi nhưng tất cả những gì tôi đã làm là biểu tình, để đòi tự do, quyền sở hữu đất đai và bình đẳng tôn giáo […] Họ nói với tôi rằng tôi sẽ chết trong tù, rằng tôi sẽ chết trong phòng giam đó và gia đình tôi sẽ không bao giờ biết.”
Dar (bút danh) là một cựu tù nhân lương tâm là người dân tộc thiểu số và tôn giáo đến từ Tây Nguyên của Việt Nam. Anh bị cáo buộc tổ chức các cuộc biểu tình của các nhóm người Thượng, bị bắt vào năm 2008 và bị giam cầm hơn năm năm. Trong ba tháng sau khi bị bắt, gia đình của Dar tin rằng anh đã bị giết và xác anh bị vứt trong rừng. Cuối cùng, họ biết rằng anh vẫn còn sống từ gia đình của một tù nhân khác trong trại giam nơi Dar bị giam giữ.
Trong 10 tháng đầu tiên bị giam giữ, Dar bị giam giữ biệt lập trong bóng tối hoàn toàn và hoàn toàn im lặng, chỉ được phép mặc đồ lót trong một phòng giam mà anh ước tính không lớn hơn bốn mét vuông. Trong hai tháng, anh bị đưa ra khỏi phòng giam mỗi ngày, bị thẩm vấn và đánh đập. Anh bị đánh bằng gậy và ống cao su, bị đấm, đá, bị sốc điện, bị đốt dọc theo chiều dài chân bằng một tờ giấy đang cháy, và bị bắt đứng dang rộng hai chân và giơ hai tay lên cao trên đầu trong thời gian lên đến tám giờ. Có một lần, anh bị treo bằng tay lên trần nhà trong 15 phút trong khi cảnh sát đánh anh cho đến khi anh bất tỉnh. Vào những lần khác, cảnh sát, đôi khi say rượu, đã đến phòng giam của anh vào nửa đêm và đánh anh tại đó.
Dar bị giam giữ biệt lập trong 10 tháng, chỉ được phép gặp chị gái mình một lần trong suốt thời gian này trong một cuộc họp mà họ không được phép nói tiếng mẹ đẻ của mình và cuộc họp đã bị cắt ngắn khi chị gái anh cầu xin anh hãy giữ vững đức tin của mình vào Chúa. Dar đã bị xét xử mà không có đại diện pháp lý và không có thông báo nào được gửi đến gia đình anh. Anh đã phải ngồi tù hơn năm năm, được thả vào năm 2014 sau khi phải chịu vô số hành vi tra tấn và ngược đãi.
Trường hợp của Dar là minh họa cho các hành vi tra tấn và ngược đãi khác được thực hiện tại các trung tâm giam giữ và nhà tù của Việt Nam đối với các tù nhân lương tâm; những cá nhân bị giam giữ vì các tín ngưỡng chính trị, tôn giáo hoặc các tín ngưỡng khác có lương tâm, nguồn gốc dân tộc, giới tính, màu da, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc gia hoặc xã hội, tình trạng kinh tế, nơi sinh, khuynh hướng tình dục hoặc tình trạng khác mà không sử dụng bạo lực hoặc ủng hộ bạo lực hoặc thù hận.
Báo cáo này – Nhà tù trong nhà tù: Tra tấn và ngược đãi tù nhân lương tâm tại Việt Nam – phác thảo những hành vi tàn bạo này bao gồm giam giữ biệt lập, cưỡng bức mất tích, gây ra đau đớn và đau khổ nghiêm trọng về thể xác, giam giữ biệt lập, từ chối điều trị y tế và chuyển trại tù mang tính trừng phạt.
Báo cáo được viết dựa trên một loạt các cuộc phỏng vấn do Tổ chức Ân xá Quốc tế thực hiện với 18 cựu tù nhân lương tâm, bảy phụ nữ và 11 nam giới, tất cả đều đã được thả trong năm năm qua.
Những người đàn ông và phụ nữ này đã mô tả những điều kiện kinh hoàng tại các trung tâm giam giữ và nhà tù của đất nước, và sự đối xử tàn bạo của cảnh sát và chính quyền nhà tù. Họ mô tả một hệ thống lạm dụng thúc đẩy hành động ngay tại thời điểm bắt giữ; trong nhiều trường hợp, áp lực tác động lên những người bị giam giữ đặc biệt dữ dội trong giai đoạn trước khi xét xử khi chính quyền tìm cách moi lời thú tội nhưng tình trạng lạm dụng thường kéo dài trong toàn bộ thời gian bị giam giữ cho đến khi được thả.
Vào ngày 7 tháng 11 năm 2013, Việt Nam đã ký Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác (UNCAT) và phê chuẩn vào ngày 5 tháng 2 năm 2015. Khi ký UNCAT, Lê Hoài Trung, Đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc khẳng định rằng công ước này thể hiện “cam kết không lay chuyển của quốc gia ông trong việc ngăn chặn mọi hành vi tra tấn và đối xử và trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục” và “bảo vệ và thúc đẩy tốt hơn các quyền cơ bản của con người”. Trường hợp của Dar và 17 cựu tù nhân lương tâm khác được phỏng vấn cho báo cáo này làm nổi bật khoảng cách tồn tại giữa cam kết công khai, rõ ràng của Việt Nam trong việc chấm dứt tệ nạn tra tấn và thực tế đối với các tù nhân lương tâm tại các đồn cảnh sát, nhà tù và trung tâm giam giữ của quốc gia này. Trong khi việc Việt Nam phê chuẩn UNCAT là một bước phát triển đáng hoan nghênh, các biện pháp rộng rãi, bao gồm các biện pháp lập pháp, hành chính, tư pháp trong số các biện pháp khác, là cần thiết cấp bách để Việt Nam duy trì các nghĩa vụ của mình theo hiệp ước và thực hiện và trừng phạt các hành vi được nêu trong báo cáo này. Tổ chức Ân xá Quốc tế kêu gọi Việt Nam chấm dứt việc bắt giữ và truy tố nam giới và phụ nữ vì đức tin và hoạt động hòa bình của họ; chấm dứt mọi hành vi tra tấn và ngược đãi tại các đồn cảnh sát, trung tâm giam giữ và nhà tù; điều tra mọi khiếu nại và báo cáo về tra tấn và các hành vi ngược đãi khác một cách kịp thời, công bằng, độc lập và hiệu quả; và sửa đổi luật trong nước để đảm bảo tuân thủ UNCAT và các tiêu chuẩn quốc tế về đối xử với tù nhân.
Trong quá trình điều tra của chúng tôi, thuật ngữ “nhà tù trong nhà tù” (“nhà tù trong nhà tù” hoặc “tù trong tù” trong tiếng Việt) đã được nhiều người được phỏng vấn sử dụng nhiều lần để mô tả một hệ thống cô lập về thể chất và cảm xúc với một số mục đích có chủ đích: buộc các tù nhân lương tâm phải “thú nhận” những tội ác mà họ bị buộc tội; trừng phạt họ vì đã thách thức quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) bằng cách khẳng định các quyền của họ; và ngăn cản họ tương tác với các tù nhân khác và tiếp tục hoạt động sau song sắt. Báo cáo này đưa ra lời giải thích về bối cảnh pháp lý và chính trị của Việt Nam và trình bày trong các chương riêng một số hình thức tra tấn và các hành vi ngược đãi khác đang được áp dụng đối với các tù nhân lương tâm của đất nước. Báo cáo kết thúc bằng thông tin về tù nhân lương tâm hiện tại, bao gồm mô tả về các trường hợp cụ thể của những cá nhân hiện đang trải qua các hình thức lạm dụng được nêu trong báo cáo này.

Kiểm tra thực tế trực tiếp bài phát biểu của Tổng thống Donald Trump trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc

2

Tổng thống Donald Trump dự kiến ​​sẽ có bài phát biểu trước Đại hội đồng Liên hợp quốc vào ngày 23 tháng 9, hai ngày sau khi các đồng minh chủ chốt công nhận nhà nước Palestine, bất chấp sự phản đối của Hoa Kỳ và Israel.

Đại hội đồng Liên Hợp Quốc là cơ quan hoạch định chính sách chính của tổ chức toàn cầu này. Mỗi quốc gia thành viên trong số 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đều có quyền bỏ phiếu ngang nhau khi đại hội hoàn thành các nhiệm vụ như phê duyệt ngân sách của Liên Hợp Quốc và bổ nhiệm Tổng Thư ký.

Cuộc họp của các nhà lãnh đạo thế giới này đánh dấu kỷ niệm 80 năm thành lập Liên Hợp Quốc. Sự kiện quan trọng này diễn ra trong bối cảnh các thành viên đang bất đồng quan điểm .

PolitiFact đang kiểm tra trực tiếp bài phát biểu của Trump, dự kiến ​​bắt đầu lúc 9:50 sáng giờ EST. Theo dõi tại đây. >>

Trong những tháng đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai, Trump vẫn tiếp tục chỉ trích Liên Hợp Quốc. Ông không đóng hội phí thành viên, ra lệnh xem xét lại nguồn tài trợ của Liên Hợp Quốc và rút Hoa Kỳ khỏi Tổ chức Y tế Thế giới, Hội đồng Nhân quyền và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO).

Vào ngày 21 tháng 9, các đồng minh của Mỹ, bao gồm Úc, Canada và Vương quốc Anh, đã cùng với đa số các nước khác chính thức công nhận nhà nước Palestine. Việc này phần lớn chỉ mang tính biểu tượng và dự kiến ​​sẽ không thay đổi ngay lập tức tình hình thực tế. Việc công nhận nhà nước cho phépthiết lập các mối quan hệ ngoại giao như ký kết hiệp ước và cử đại sứ. Vào ngày 22 tháng 9, Pháp và Ả Rập Xê Út đã tổ chức một hội nghị để tập hợp sự ủng hộ cho giải pháp hai nhà nước cho cuộc chiến giữa Israel và Hamas. Giải pháp hai nhà nước được 142 trong số 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc ủng hộ .

Vì lo ngại về an ninh quốc gia, Bộ Ngoại giao của Trump đã từ chối cấp thị thực cho phái đoàn Palestine, nghĩa là các nhà lãnh đạo Palestine bao gồm cả Mahmoud Abbas sẽ không thể tham dự cuộc họp tại trụ sở Liên hợp quốc ở Thành phố New York.

Việc từ chối cấp thị thực là một phần của một tranh chấp cơ bản rộng lớn hơn với Liên Hợp Quốc: Nó có thể vi phạm thỏa thuận Hoa Kỳ-Liên Hợp Quốc năm 1947, nay đã trở thành luật liên bang. Thỏa thuận này quy định, một phần, “Chính quyền liên bang, tiểu bang hoặc địa phương của Hoa Kỳ không được áp đặt bất kỳ trở ngại nào đối với việc quá cảnh đến hoặc đi từ khu vực trụ sở chính.” Tuy nhiên, khi thỏa thuận này trở thành luật, các nhà lập pháp Hoa Kỳ cũng đã thông qua luật, trong đó nêu rõ thỏa thuận không thể cấm Hoa Kỳ bảo vệ an ninh quốc gia.

Chiến tranh Nga-Ukraine là một vấn đề quốc tế đáng quan ngại khác. Bất chấp cam kết chấm dứt chiến tranh ngay sau khi nhậm chức của Trump, cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn. Hoa Kỳ đã nhiều lần đứng về phía Nga trong các cuộc bỏ phiếu tại Liên Hợp Quốc, bao gồm cả việc phản đối nghị quyết lên án hành động của Moscow và ủng hộ toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc gồm 15 thành viên đã rơi vào bế tắc và không thể hành động trong suốt cuộc chiến Nga-Ukraine do Nga nắm quyền phủ quyết . Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc dự kiến ​​sẽ tổ chức một cuộc họp khẩn cấp vào ngày 22 tháng 9 để thảo luận về việc Nga vi phạm không phận Estonia, diễn ra sau khi Nga vi phạm không phận Ba Lan hồi đầu tháng này.

Bạn có nghe thấy điều gì trong bài phát biểu của Trump mà bạn nghĩ chúng ta nên kiểm tra thực tế không? Trả lời email này.

— Madison Czopek

 

Từ Nhà Báo Thành Quan Chức: Khi Kỹ Năng Tuyên Truyền Thay Thế Tự Do Ngôn Luận

1

Chúng ta thường nghĩ rằng một chính phủ có nhiều nhân sự xuất thân từ ngành truyền thông sẽ hiểu và bảo vệ quyền Tự do ngôn luận. Thế nhưng, thực tế cho thấy điều ngược lại: tình trạng báo chí và ngôn luận đang xuống cấp nhanh chóng, bị bóp méo và lợi dụng để phục vụ quyền lực thay vì công chúng.

1. Từ “người đưa tin” thành “người kiểm soát thông tin”

Những nhân vật từng làm trong ngành truyền thông, đặc biệt ở các kênh có thiên kiến chính trị, không mang theo tinh thần báo chí độc lập, mà mang theo thói quen định hướng dư luận. Trong chính quyền, họ tiếp tục xem thông tin là vũ khí, không phải là quyền của người dân.

2. Kỹ năng thao túng thay vì minh bạch

Truyền thông thương mại đã dạy họ cách tạo “câu chuyện” có lợi cho phe mình, gieo sợ hãi, dựng hình ảnh “kẻ thù chung”. Khi đem kỹ năng đó vào bộ máy nhà nước, thông tin chính trị trở thành công cụ thao túng, không còn là sự thật khách quan.

3. Đặc quyền phát ngôn thay thế quyền tự do

Tự do ngôn luận vốn là quyền của công dân. Nhưng trong môi trường bị thao túng, nó biến thành đặc quyền của chính quyền và đồng minh. Những tiếng nói phản biện bị chụp mũ, đe dọa, hoặc dập tắt. Trong khi đó, tiếng nói ca tụng được khuếch đại và bảo vệ.

4. Phục vụ quyền lực thay vì công lý

Trước đây, họ từng phục vụ “khán giả mục tiêu” của một kênh truyền hình. Bây giờ, họ chỉ phục vụ một “khán giả duy nhất” – tổng thống và đảng phái. Báo chí độc lập bị xem như “kẻ phá bĩnh”, còn chính sách truyền thông trở thành công cụ để duy trì quyền lực.

5. Báo chí yếu dễ bị khống chế

Sự phân cực khiến báo chí chính thống chia rẽ. Một số bị mua chuộc bằng lợi ích, số khác bị đe dọa bằng pháp lý. Điều này tạo ra hiệu ứng “tự kiểm duyệt” (chilling effect), khiến báo chí e ngại phơi bày sự thật. Và khi báo chí im lặng, xã hội mất đi cơ chế giám sát quyền lực.

Kết luận

Một chính phủ đầy rẫy những “người từng làm truyền thông” chưa chắc đã bảo vệ tự do ngôn luận. Trái lại, nếu họ xem truyền thông chỉ là công cụ tuyên truyền, thì kỹ năng thao túng sẽ thay thế tinh thần báo chí.

Và khi đó, Tự do ngôn luận – nền tảng của mọi nền dân chủ – không còn được gìn giữ như một quyền, mà chỉ tồn tại như một công cụ chính trị.

Khi quyền lực chính trị biến tự do ngôn luận thành tội lỗi

0

Phát biểu gần đây của Phó Tổng thống J.D. Vance — “nếu ngôn từ chính trị của bạn khuyến khích bạo lực chống lại cơ quan thực thi pháp luật, bạn có thể đi thẳng xuống địa ngục và không có chỗ trong cuộc thảo luận chính trị của Hoa Kỳ” — nghe có vẻ mạnh mẽ, nhưng thực chất ẩn chứa một nguy cơ lớn đối với nền dân chủ Mỹ.

1. Ngôn từ chính trị và tự do ngôn luận

Tự do ngôn luận được Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ bảo vệ. Ngay cả những phát biểu khó chịu, gây tranh cãi hoặc chống lại chính quyền cũng nằm trong khuôn khổ được bảo hộ, miễn là không trực tiếp kêu gọi bạo lực cụ thể và tức thì. Vance đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm: gắn mác “khuyến khích bạo lực” cho mọi ý kiến phản biện các cơ quan thực thi pháp luật. Một người viết bài báo, một nhà hoạt động, hay thậm chí một công dân đặt câu hỏi về hành vi của ICE hoặc FBI — liệu có thể bị gạt ra khỏi “cuộc trò chuyện chính trị” chỉ vì phát biểu đó bị diễn giải là “nguy hiểm”?

2. Khi báo chí trở thành mục tiêu

Báo chí Mỹ từ lâu đóng vai trò giám sát quyền lực. Nhưng với giọng điệu kiểu Vance, những tờ báo điều tra các vụ bắt giữ di dân sai quy trình, việc lạm quyền của ICE, hay cảnh sát bịt mặt vi phạm luật California, dễ dàng bị chụp mũ là “kích động bạo lực”. Đây chính là công cụ để dập tắt báo chí độc lập, biến mọi chỉ trích thành “đe dọa an ninh công cộng”.

Trong bối cảnh chính quyền Trump đã từng giải tán Văn phòng Phòng chống Bạo lực Súng đạn và cắt giảm ngân sách FBI, ATF, DEA, thì việc Vance hô hào bảo vệ “law enforcement” lại càng mâu thuẫn. Chính quyền vừa làm suy yếu khả năng thực thi pháp luật, vừa đàn áp những tiếng nói dám chỉ trích.

3. Hiểm họa của “cấm cửa đối thoại”

Khi một lãnh đạo cao cấp tuyên bố có những quan điểm “không có chỗ trong cuộc trò chuyện chính trị”, tức là họ đang đặt giới hạn lên phạm vi của nền dân chủ. Lịch sử cho thấy ở nhiều chế độ chuyên chế, chính quyền bắt đầu bằng cách kiểm soát ngôn từ, sau đó hợp pháp hóa đàn áp đối lập bằng luật lệ. Đó chính là con đường “hợp pháp hóa” độc tài.

4. Tự do ngôn luận không phải đặc ân, mà là nền tảng

Chính Martin Luther King Jr. từng viết trong Letter from Birmingham Jail: “Chúng ta phải bảo vệ quyền nói lên sự thật, cho dù sự thật ấy gây khó chịu.” Nếu quyền lực được phép định nghĩa cái gì là “không được phép bàn”, nền dân chủ Mỹ sẽ dần mất linh hồn của nó.

Kết luận:
Phát biểu của J.D. Vance không chỉ là một câu nói nhất thời, mà là dấu hiệu cho thấy sự thu hẹp không gian tự do ngôn luận và báo chí trong chính quyền Trump – Vance. Người dân Mỹ cần phải cảnh giác: hôm nay là những nhà báo và nhà hoạt động, ngày mai có thể là bất cứ ai trong chúng ta.

Nỗi lo sợ mới về Antifa của Trump là khởi đầu cho một điều gì đó nguy hiểm hơn nhiều

Tổng thống đã ký một sắc lệnh hành pháp hôm thứ Hai, tuyên bố Antifa là một “tổ chức khủng bố trong nước”.

“Tất cả các bộ và cơ quan hành pháp có liên quan sẽ sử dụng tất cả các thẩm quyền hiện hành để điều tra, ngăn chặn và triệt phá bất kỳ và tất cả các hoạt động bất hợp pháp – đặc biệt là các hoạt động liên quan đến khủng bố – do Antifa hoặc bất kỳ cá nhân nào tự xưng hành động thay mặt cho Antifa thực hiện, hoặc do Antifa hoặc bất kỳ cá nhân nào tự xưng hành động thay mặt cho Antifa cung cấp hỗ trợ vật chất, bao gồm cả các hành động điều tra và truy tố cần thiết đối với những người tài trợ cho các hoạt động đó”, sắc lệnh viết.
Điều này diễn ra sau thông báo mà tổng thống đưa ra vào tuần trước sau khi tham dự một bữa tiệc tối trang trọng tại Lâu đài Windsor với Vua Charles. “Tôi vui mừng thông báo với đông đảo những người yêu nước Hoa Kỳ rằng tôi sẽ chỉ định Antifa, MỘT THẢM HỌA CỰC ĐOAN, BỆNH HOẠN, NGUY HIỂM, LÀ MỘT TỔ CHỨC KHỦNG BỐ LỚN”, ông viết trên mạng xã hội. “Tôi cũng sẽ mạnh mẽ khuyến nghị rằng những người tài trợ cho ANTIFA phải được điều tra kỹ lưỡng theo các tiêu chuẩn và thông lệ pháp lý cao nhất. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị đối với vấn đề này!”

Hầu như mọi từ trong bài đăng của tổng thống đều là dối trá. Antifa không phải là một tổ chức. Không có luật lệ pháp lý nào để tuyên bố Antifa là một “tổ chức khủng bố lớn”. Antifa cũng không có mạng lưới các nhà hảo tâm giàu có, mờ ám có thể bị vạch mặt. (Số tiền ít ỏi mà những người ủng hộ Antifa có được thường đến từ túi riêng của họ.)

“Tôi đoán vấn đề của việc Antifa không phải là một tổ chức thực sự là hầu như không ai ra ngoài và quảng bá cho chúng tôi”, một nhà hoạt động chống phát xít người Mỹ nói với tôi sau tuyên bố của tổng thống hôm thứ Tư. (Họ yêu cầu giấu tên vì sợ bị trả thù từ phe cực hữu.) Nói cách khác: Bởi vì antifa — viết tắt của “anti-fascist” — ám chỉ một nhóm nhỏ cánh tả phi tập trung và hoạt động ngầm, chủ yếu chống lại phe cực hữu, hầu hết đều che giấu danh tính, nên không có nhà lãnh đạo hay người phát ngôn chính thức nào lên truyền hình cáp để bác bỏ những lời dối trá của Trump.

Tôi đã phỏng vấn khoảng 60 người Mỹ chống phát xít cho cuốn sách sắp ra mắt của mình, “To Catch a Fascist: The Fight to Exose the Radical Right” (Bắt một kẻ phát xít: Cuộc chiến vạch trần phe cực hữu). Trong thập kỷ qua, họ đã thấy Trump và các nhân vật MAGA khác lợi dụng những hiểu lầm của công chúng về antifa để tạo ra một hình ảnh xấu, nhiều lần đe dọa chính thức coi những người chống phát xít đôi khi hiếu chiến này là khủng bố. Những lời đe dọa đó tỏ ra vô căn cứ, nhưng sắc lệnh hành pháp của Trump lại mang tính đe dọa hơn.

Suy cho cùng, chính quyền Trump thứ hai được tiếp thêm sức mạnh và thậm chí còn rõ ràng hơn trong các thiết kế độc đoán của mình. Hơn nữa, chín tháng đầu tiên của chính quyền này được đánh dấu bằng sự đầu hàng của các thể chế tinh hoa – tòa án, trường đại học và các tập đoàn truyền thông – trước những yêu cầu của Trump. Cơn hoảng loạn chống Antifa đang gia tăng vào năm 2025 này dường như có khả năng biến thành một chiến dịch đàn áp thực sự, không bị kiểm soát, một cuộc đàn áp của nhà nước sẽ không chỉ giới hạn ở số lượng nhỏ bé những công dân thuộc các nhóm Antifa, mà còn nhắm vào toàn bộ cánh tả Mỹ.

Nhưng làm thế nào Antifa lại trở thành một trong những ác quỷ dân gian của MAGA? Rất ít người Mỹ biết Antifa là gì trước nhiệm kỳ đầu tiên của Trump tại Nhà Trắng. Tuy nhiên, đến cuối năm 2017, một loạt các cuộc đối đầu bạo lực trên đường phố với phe cực hữu đã đưa Antifa vào nhận thức của công chúng, đáng chú ý nhất là sau cuộc biểu tình “Unite the Right” gây chết người ở Charlottesville, Virginia, khi một phần tử tân Quốc xã lái xe đâm vào đám đông chống phát xít, khiến Heather Heyer, 32 tuổi, thiệt mạng.

Cơn hoảng loạn đầu tiên về anti-fa bùng phát ngay sau đó. Người cầm đầu là Microchip, một kẻ troll ẩn danh ủng hộ Trump, người đã khởi xướng một bản kiến ​​nghị lan truyền nhằm chỉ định antifa là một “nhóm khủng bố trong nước”. Bản kiến ​​nghị đã nhận được hơn 300.000 chữ ký, mặc dù Microchip biết rằng điều đó sẽ không thực sự dẫn đến việc antifa bị chỉ định là một nhóm khủng bố – một lần nữa, không có luật liên bang nào đưa ra chỉ định như vậy. Nhưng mục tiêu của bản kiến ​​nghị của Microchip không phải là xây dựng chính sách. Thay vào đó, anh ta muốn gieo rắc nỗi sợ hãi và cơn thịnh nộ trong những người trung thành với MAGA, đồng thời đánh lạc hướng và làm chệch hướng khỏi bạo lực rất thực tế, và thường rất nguy hiểm, của phe cực hữu.

Năm 2017, Microchip nói với Politico rằng mục đích của bản kiến ​​nghị là “kéo phe cánh hữu đang tan vỡ của chúng ta lại với nhau” sau vụ Charlottesville “và chống đỡ antifa như một bao cát”.

“Vì vậy, câu chuyện đã thay đổi từ ‘Tôi ghét bản thân mình vì chúng ta có bọn tân Quốc xã bên phe mình’ thành ‘Tôi thực sự ghét Antifa, hãy cùng nhau giải quyết bọn khủng bố’”, ông nói với hãng tin, đồng thời nói thêm: “Bạn có thể gọi đó là một dạng cực đoan của ‘whataboutism’ (tạm dịch: chủ nghĩa gì thế này?).

Lời hứa của Trump về việc chỉ định Antifa là một nhóm khủng bố được đưa ra sau vụ ám sát Charlie Kirk, một người có ảnh hưởng của MAGA.

Chiến lược này sẽ được lặp lại hết lần này đến lần khác trong những năm tiếp theo. Trong bản phác thảo cuồng loạn của MAGA, Antifa trở thành một đội quân cánh tả cực đoan, được huấn luyện bài bản, âm mưu phá hủy mọi thứ mà người Mỹ yêu nước coi là thiêng liêng. Một nhóm rình rập khắp mọi ngóc ngách, đe dọa đập vỡ cửa sổ doanh nghiệp nhỏ của bạn, biến con bạn thành người chuyển giới hoặc đấm bạn vì bạn là một Cơ đốc nhân. Truyền thông cánh hữu đã quá khích tung ra những thuyết âm mưu vô căn cứ. Antifa bị đổ lỗi cho hầu hết mọi vụ xả súng hàng loạt. Tin đồn trực tuyến ám chỉ Antifa trong một vụ trật bánh tàu hỏa. Một tin đồn khác cho rằng những kẻ đốt phá Antifa đã châm ngòi cho các vụ cháy rừng hoành hành khắp miền Tây. “Hàng loạt xe buýt chở Antifa,” một tin đồn khác lại nói, “có thể sẽ đến thị trấn của bạn để thiêu rụi nó.”

Những thuyết âm mưu này đặc biệt rõ ràng vào mùa hè năm 2020, khi MAGA tìm cách đổ lỗi cho antifa về các cuộc nổi dậy chống phân biệt chủng tộc đang lan rộng khắp đất nước. Các cuộc biểu tình – nhằm phản đối vụ cảnh sát giết hại George Floyd và Breonna Taylor, cùng nhiều người Mỹ gốc Phi khác – có sự tham gia của một số nhóm antifa, nhưng những nhóm này chỉ chiếm một phần nhỏ trong số những người tham gia.

Tuy nhiên, Trump, Đảng Cộng hòa và truyền thông cánh hữu lại tập trung vào sự tham gia của antifa, đổ lỗi cho những “kẻ cực đoan cánh tả” này. Đây là một nỗ lực trắng trợn nhằm hạ thấp tính chính danh của phong trào đấu tranh cho mạng sống của người da đen, mô tả nó như một thứ gì đó vô hình, là công việc của “những kẻ kích động bên ngoài”, và tạo cớ cho các cuộc biểu tình bị cả những kẻ cực hữu và cảnh sát nhắm mục tiêu.

“An-tee-fuh” trở thành nhân vật phản diện trong các bài độc thoại của Tucker Carlson trên Fox News, chủ đề của các cuộc thảo luận tại Hội nghị Hành động Chính trị Bảo thủ và là một phần không thể thiếu trong các bài phát biểu của Trump. Khi cơn cuồng loạn này lên đến đỉnh điểm, antifa trở thành một cái tên chung cho bất kỳ ai mà MAGA không ưa. Phong trào Black Lives Matter là antifa. Tất cả những người biểu tình chống Trump đều là antifa. Các nhà báo cũng là antifa. Ngay cả những chính trị gia Dân chủ yếu đuối cũng bằng cách nào đó antifa.

Tôi đã hiểu antifa thực sự là gì trong thập kỷ qua với tư cách là một phóng viên đưa tin về phe cực hữu. Mặc dù chắc chắn có những nhóm và cá nhân hoạt động tự nhận mình là antifa, nhưng từ này cũng ám chỉ một loạt các nguyên tắc và chiến lược để triệt phá phe cực hữu: một phong cách chống phát xít hiếu chiến, tin rằng các nhóm phát xít đôi khi cần phải bị đối đầu trực tiếp trên đường phố, rằng những kẻ phát xít không nên được phép “có nền tảng” để tổ chức và rằng không thể trông cậy vào lực lượng thực thi pháp luật trong cuộc chiến chống phát xít. Những người thực hành Antifa là những người chống tư bản, tự mô tả mình là những biến thể khác nhau của những người theo chủ nghĩa vô chính phủ, xã hội chủ nghĩa và cộng sản. Hầu hết đều che giấu danh tính để tránh bị các nhà hoạt động cực hữu trả thù.

Và mặc dù những nhà hoạt động antifa này có một số hành vi hiếu chiến nhất định, bạo lực mà họ gây ra rất hiếm và không gây tử vong, thường biểu hiện rõ nhất qua những hành động đấm đá kiểu phát xít tại các cuộc biểu tình trên đường phố. Phần lớn công việc của họ là phi bạo lực, và thường liên quan đến việc thu thập thông tin tình báo về phe cực hữu, thậm chí đôi khi – như cuốn sách của tôi đã nêu chi tiết – tham gia vào hoạt động gián điệp. Một nghiên cứu năm 2020 của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế đã chỉ ra rằng phe cực hữu có liên quan đến hàng trăm vụ giết người trong 25 năm trước đó, trong khi những người chống phát xít không liên quan đến bất kỳ vụ giết người nào trong cùng khoảng thời gian. (Một tháng sau khi báo cáo được công bố, một người tự nhận là chống phát xít đã sát hại một nhà hoạt động cực hữu ở Portland.)

MAGA có định nghĩa mở rộng về những ai cấu thành nên antifa, với tất cả mọi người, kể cả những người hơi thiên tả cũng có thể bị dán nhãn như vậy.

Lời hứa của Trump về việc liệt kê Antifa là một nhóm khủng bố được đưa ra sau vụ ám sát Charlie Kirk, một người có ảnh hưởng của MAGA. Theo các công tố viên, nghi phạm, Tyler Robinson, đã viết “Bella Ciao” và “Này phát xít, bắt lấy!” trên một số vỏ đạn của mình. Mặc dù những thông điệp này nghe có vẻ giống như ám chỉ đến Antifa (“Bella Ciao” là một bài thánh ca chống phát xít), nhưng các báo cáo cho thấy chúng có thể ám chỉ đến các meme phổ biến trong một nhóm nhỏ game thủ trực tuyến. Tuy nhiên, phe cánh hữu vẫn đang vội vã dán nhãn Robinson là “Antifa”.

Những cơn hoảng loạn gần đây về Antifa đã cho thấy MAGA có một định nghĩa mở rộng về việc ai là Antifa, với tất cả mọi người, ngay cả những người hơi thiên tả, đều có thể bị gán nhãn như vậy. Việc coi Antifa là một “tổ chức khủng bố lớn” như Trump đã làm, sau đó trở thành cái cớ để phe cánh hữu nhắm vào bất cứ ai họ muốn, bằng cả sự đàn áp của nhà nước và bạo lực tự phát.

Trong khi đó, tuần trước, Bộ Tư pháp của Trump đã lặng lẽ gỡ bỏ một nghiên cứu trực tuyến cho thấy những kẻ cực đoan cánh hữu gây ra “nhiều” vụ bạo lực chết người hơn những kẻ cực tả, trong khi MSNBC đưa tin rằng chiến dịch trục xuất hàng loạt hàng triệu người nhập cư khỏi Mỹ của Trump đã khiến các đặc vụ FBI không còn theo dõi và truy tố các nhóm cực hữu bạo lực nữa.

Vấn đề của chính quyền Trump không phải là tai họa của bạo lực chính trị mà là ai được phép gây ra nó.

Bài phát biểu của Tổng thống Obama trước nhân dân Việt Nam

National Convention Center
Hanoi, Vietnam

12:11 P.M. ICT

PRESIDENT OBAMA:  Xin chào!  (Applause.)  Xin chào Vietnam!  (Applause.)  Thank you.  Thank you so much.  To the government and the people of Vietnam, thank you for this very warm welcome and the hospitality that you have shown to me on this visit.  And thank all of you for being here today.  (Applause.)   We have Vietnamese from across this great country, including so many young people who represent the dynamism, and the talent and the hope of Vietnam.

On this visit, my heart has been touched by the kindness for which the Vietnamese people are known.  In the many people who have been lining the streets, smiling and waving, I feel the friendship between our peoples.  Last night, I visited the Old Quarter here in Hanoi and enjoyed some outstanding Vietnamese food.  I tried some Bún Chả.  (Applause.)  Drank some bia Ha Noi.  But I have to say, the busy streets of this city, I’ve never seen so many motorbikes in my life.  (Laughter.)  So I haven’t had to try to cross the street so far, but maybe when I come back and visit you can tell me how.

I am not the first American President to come to Vietnam in recent times.  But I am the first, like so many of you, who came of age after the war between our countries.  When the last U.S. forces left Vietnam, I was just 13 years old.  So my first exposure to Vietnam and the Vietnamese people came when I was growing up in Hawaii, with its proud Vietnamese American community there.

At the same time, many people in this country are much younger than me.  Like my two daughters, many of you have lived your whole lives knowing only one thing — and that is peace and normalized relations between Vietnam and the United States.  So I come here mindful of the past, mindful of our difficult history, but focused on the future — the prosperity, security and human dignity that we can advance together.

I also come here with a deep respect for Vietnam’s ancient heritage.  For millennia, farmers have tended these lands — a history revealed in the Dong Son drums.  At this bend in the river, Hanoi has endured for more than a thousand years.  The world came to treasure Vietnamese silks and paintings, and a great Temple of Literature stands as a testament to your pursuit of knowledge.  And yet, over the centuries, your fate was too often dictated by others.  Your beloved land was not always your own.  But like bamboo, the unbroken spirit of the Vietnamese people was captured by Ly Thuong Kiet — “the Southern emperor rules the Southern land.  Our destiny is writ in Heaven’s Book.”

Today, we also remember the longer history between Vietnamese and Americans that is too often overlooked.  More than 200 years ago, when our Founding Father, Thomas Jefferson, sought rice for his farm, he looked to the rice of Vietnam, which he said had “the reputation of being whitest to the eye, best flavored to the taste, and most productive.”  Soon after, American trade ships arrived in your ports seeking commerce.

During the Second World War, Americans came here to support your struggle against occupation.  When American pilots were shot down, the Vietnamese people helped rescue them.  And on the day that Vietnam declared its independence, crowds took to the streets of this city, and Ho Chi Minh evoked the American Declaration of Independence.  He said, “All people are created equal.  The Creator has endowed them with inviolable rights.  Among these rights are the right to life, the right to liberty, and the right to the pursuit of happiness.”

In another time, the profession of these shared ideals and our common story of throwing off colonialism might have brought us closer together sooner.  But instead, Cold War rivalries and fears of communism pulled us into conflict.  Like other conflicts throughout human history, we learned once more a bitter truth — that war, no matter what our intentions may be, brings suffering and tragedy.

At your war memorial not far from here, and with family altars across this country, you remember some 3 million Vietnamese, soldiers and civilians, on both sides, who lost their lives.  At our memorial wall in Washington, we can touch the names of 58,315 Americans who gave their lives in the conflict.  In both our countries, our veterans and families of the fallen still ache for the friends and loved ones that they lost.  Just as we learned in America that, even if we disagree about a war, we must always honor those who serve and welcome them home with the respect they deserve, we can join together today, Vietnamese and Americans, and acknowledge the pain and the sacrifices on both sides.

More recently, over the past two decades, Vietnam has achieved enormous progress, and today the world can see the strides that you have made.  With economic reforms and trade agreements, including with the United States, you have entered the global economy, selling your goods around the world.  More foreign investment is coming in.  And with one of the fastest-growing economies in Asia, Vietnam has moved up to become a middle-income nation.

We see Vietnam’s progress in the skyscrapers and high-rises of Hanoi and Ho Chi Minh City, and new shopping malls and urban centers.  We see it in the satellites Vietnam puts into space and a new generation that is online, launching startups and running new ventures.  We see it in the tens of millions of Vietnamese connected on Facebook and Instagram.  And you’re not just posting selfies — although I hear you do that a lot — (laughter) — and so far, there have been a number of people who have already asked me for selfies.  You’re also raising your voices for causes that you care about, like saving the old trees of Hanoi.

So all this dynamism has delivered real progress in people’s lives.  Here in Vietnam, you’ve dramatically reduced extreme poverty, you’ve boosted family incomes and lifted millions into a fast-growing middle class.  Hunger, disease, child and maternal mortality are all down.  The number of people with clean drinking water and electricity, the number of boys and girls in school, and your literacy rate — these are all up.  This is extraordinary progress.  This is what you have been able to achieve in a very short time.

And as Vietnam has transformed, so has the relationship between our two nations.  We learned a lesson taught by the venerable Thich Nhat Hanh, who said, “In true dialogue, both sides are willing to change.”  In this way, the very war that had divided us became a source for healing.  It allowed us to account for the missing and finally bring them home.  It allowed us to help remove landmines and unexploded bombs, because no child should ever lose a leg just playing outside.  Even as we continue to assist Vietnamese with disabilities, including children, we are also continuing to help remove Agent Orange — dioxin — so that Vietnam can reclaim more of your land.  We’re proud of our work together in Danang, and we look forward to supporting your efforts in Bien Hoa.

Let’s also not forget that the reconciliation between our countries was led by our veterans who once faced each other in battle.  Think of Senator John McCain, who was held for years here as a prisoner of war, meeting General Giap, who said our countries should not be enemies but friends.  Think of all the veterans, Vietnamese and American, who have helped us heal and build new ties.  Few have done more in this regard over the years than former Navy lieutenant, and now Secretary of State of the United States, John Kerry, who is here today.  And on behalf of all of us, John, we thank you for your extraordinary effort.  (Applause.)

Because our veterans showed us the way, because warriors had the courage to pursue peace, our peoples are now closer than ever before.  Our trade has surged.  Our students and scholars learn together.  We welcome more Vietnamese students to America than from any other country in Southeast Asia.  And every year, you welcome more and more American tourists, including young Americans with their backpacks, to Hanoi’s 36 Streets and the shops of Hoi An, and the imperial city of Hue.  As Vietnamese and Americans, we can all relate to those words written by Van Cao — “From now, we know each other’s homeland; from now, we learn to feel for each other.”

As President, I’ve built on this progress.  With our new Comprehensive Partnership, our governments are working more closely together than ever before.  And with this visit, we’ve put our relationship on a firmer footing for decades to come.  In a sense, the long story between our two nations that began with Thomas Jefferson more than two centuries ago has now come full circle.  It has taken many years and required great effort.  But now we can say something that was once unimaginable:  Today, Vietnam and the United States are partners.

And I believe our experience holds lessons for the world.  At a time when many conflicts seem intractable, seem as if they will never end, we have shown that hearts can change and that a different future is possible when we refuse to be prisoners of the past.  We’ve shown how peace can be better than war.  We’ve shown that progress and human dignity is best advanced by cooperation and not conflict.  That’s what Vietnam and America can show the world.

Now, America’s new partnership with Vietnam is rooted in some basic truths.  Vietnam is an independent, sovereign nation, and no other nation can impose its will on you or decide your destiny.  (Applause.)  Now, the United States has an interest here.  We have an interest in Vietnam’s success.  But our Comprehensive Partnership is still in its early stages.  And with the time I have left, I want to share with you the vision that I believe can guide us in the decades ahead.

First, let’s work together to create real opportunity and prosperity for all of our people.  We know the ingredients for economic success in the 21st century.  In our global economy, investment and trade flows to wherever there is rule of law, because no one wants to pay a bribe to start a business.  Nobody wants to sell their goods or go to school if they don’t know how they’re going to be treated.  In knowledge-based economies, jobs go to where people have the freedom to think for themselves and exchange ideas and to innovate.  And real economic partnerships are not just about one country extracting resources from another.  They’re about investing in our greatest resource, which is our people and their skills and their talents, whether you live in a big city or a rural village.  And that’s the kind of partnership that America offers.

As I announced yesterday, the Peace Corps will come to Vietnam for the first time, with a focus on teaching English.  A generation after young Americans came here to fight, a new generation of Americans are going to come here to teach and build and deepen the friendship between us.  (Applause.)  Some of America’s leading technology companies and academic institutions are joining Vietnamese universities to strengthen training in science, technology, engineering, mathematics, and medicine.  Because even as we keep welcoming more Vietnamese students to America, we also believe that young people deserve a world-class education right here in Vietnam.

It’s one of the reasons why we’re very excited that this fall, the new Fulbright University Vietnam will open in Ho Chi Minh City — this nation’s first independent, non-profit university — where there will be full academic freedom and scholarships for those in need.  (Applause.)  Students, scholars, researchers will focus on public policy and management and business; on engineering and computer science; and liberal arts — everything from the poetry of Nguyen Du, to the philosophy of Phan Chu Trinh, to the mathematics of Ngo Bao Chau.

And we’re going to keep partnering with young people and entrepreneurs, because we believe that if you can just access the skills and technology and capital you need, then nothing can stand in your way — and that includes, by the way, the talented women of Vietnam.  (Applause.)  We think gender equality is an important principle.  From the Trung Sisters to today, strong, confident women have always helped move Vietnam forward.  The evidence is clear — I say this wherever I go around the world — families, communities and countries are more prosperous when girls and women have an equal opportunity to succeed in school and at work and in government.  That’s true everywhere, and it’s true here in Vietnam.  (Applause.)

We’ll keep working to unleash the full potential of your economy with the Trans-Pacific Partnership.  Here in Vietnam, TPP will let you sell more of your products to the world and it will attract new investment.  TPP will require reforms to protect workers and rule of law and intellectual property.  And the United States is ready to assist Vietnam as it works to fully implement its commitments.  I want you to know that, as President of the United States, I strongly support TPP because you’ll also be able to buy more of our goods, “Made in America.”

Moreover, I support TPP because of its important strategic benefits.  Vietnam will be less dependent on any one trading partner and enjoy broader ties with more partners, including the United States.  (Applause.)  And TPP will reinforce regional cooperation.  It will help address economic inequality and will advance human rights, with higher wages and safer working conditions.  For the first time here in Vietnam, the right to form independent labor unions and prohibitions against forced labor and child labor.  And it has the strongest environmental protections and the strongest anti-corruption standards of any trade agreement in history.  That’s the future TPP offers for all of us, because all of us — the United States, Vietnam, and the other signatories — will have to abide by these rules that we have shaped together.  That’s the future that is available to all of us.  So we now have to get it done — for the sake of our economic prosperity and our national security.

This brings me to the second area where we can work together, and that is ensuring our mutual security.  With this visit, we have agreed to elevate our security cooperation and build more trust between our men and women in uniform.  We’ll continue to offer training and equipment to your Coast Guard to enhance Vietnam’s maritime capabilities.  We will partner to deliver humanitarian aid in times of disaster.  With the announcement I made yesterday to fully lift the ban on defense sales, Vietnam will have greater access to the military equipment you need to ensure your security.  And the United States is demonstrating our commitment to fully normalize our relationship with Vietnam.  (Applause.)

More broadly, the 20th century has taught all of us — including the United States and Vietnam — that the international order upon which our mutual security depends is rooted in certain rules and norms.  Nations are sovereign, and no matter how large or small a nation may be, its sovereignty should be respected, and it territory should not be violated.  Big nations should not bully smaller ones.  Disputes should be resolved peacefully.  (Applause.)  And regional institutions, like ASEAN and the East Asia Summit, should continue to be strengthened.  That’s what I believe.  That’s what the United States believes.  That’s the kind of partnership America offers this region.  I look forward to advancing this spirit of respect and reconciliation later this year when I become the first U.S. President to visit Laos.

In the South China Sea, the United States is not a claimant in current disputes.  But we will stand with partners in upholding core principles, like freedom of navigation and overflight, and lawful commerce that is not impeded, and the peaceful resolution of disputes, through legal means, in accordance with international law.  As we go forward, the United States will continue to fly, sail and operate wherever international law allows, and we will support the right of all countries to do the same.  (Applause.)

Even as we cooperate more closely in the areas I’ve described, our partnership includes a third element — addressing areas where our governments disagree, including on human rights.  I say this not to single out Vietnam.  No nation is perfect.  Two centuries on, the United States is still striving to live up to our founding ideals.  We still deal with our shortcomings — too much money in our politics, and rising economic inequality, racial bias in our criminal justice system, women still not being paid as much as men doing the same job.  We still have problems.  And we’re not immune from criticism, I promise you.  I hear it every day.  But that scrutiny, that open debate, confronting our imperfections, and allowing everybody to have their say has helped us grow stronger and more prosperous and more just.

I’ve said this before — the United States does not seek to impose our form of government on Vietnam.  The rights I speak of I believe are not American values; I think they’re universal values written into the Universal Declaration of Human Rights.  They’re written into the Vietnamese constitution, which states that “citizens have the right to freedom of speech and freedom of the press, and have the right of access to information, the right to assembly, the right to association, and the right to demonstrate.”  That’s in the Vietnamese constitution.  (Applause.)  So really, this is an issue about all of us, each country, trying to consistently apply these principles, making sure that we — those of us in government — are being true to these ideals.

In recent years, Vietnam has made some progress.  Vietnam has committed to bringing its laws in line with its new constitution and with international norms.  Under recently passed laws, the government will disclose more of its budget and the public will have the right to access more information.  And, as I said, Vietnam has committed to economic and labor reforms under the TPP.   So these are all positive steps.  And ultimately, the future of Vietnam will be decided by the people of Vietnam.  Every country will chart its own path, and our two nations have different traditions and different political systems and different cultures.  But as a friend of Vietnam, allow me to share my view — why I believe nations are more successful when universal rights are upheld.

When there is freedom of expression and freedom of speech, and when people can share ideas and access the Internet and social media without restriction, that fuels the innovation economies need to thrive.  That’s where new ideas happen.  That’s how a Facebook starts.  That’s how some of our greatest companies began — because somebody had a new idea.  It was different.  And they were able to share it.  When there’s freedom of the press — when journalists and bloggers are able to shine a light on injustice or abuse — that holds officials accountable and builds public confidence that the system works.  When candidates can run for office and campaign freely, and voters can choose their own leaders in free and fair elections, it makes the countries more stable, because citizens know that their voices count and that peaceful change is possible.  And it brings new people into the system.

When there is freedom of religion, it not only allows people to fully express the love and compassion that are at the heart of all great religions, but it allows faith groups to serve their communities through schools and hospitals, and care for the poor and the vulnerable.  And when there is freedom of assembly — when citizens are free to organize in civil society — then countries can better address challenges that government sometimes cannot solve by itself.  So it is my view that upholding these rights is not a threat to stability, but actually reinforces stability and is the foundation of progress.

After all, it was a yearning for these rights that inspired people around the world, including Vietnam, to throw off colonialism.  And I believe that upholding these rights is the fullest expression of the independence that so many cherish, including here, in a nation that proclaims itself to be “of the People, by the People and for the People.”

Vietnam will do it differently than the United States does.  And each of us will do it differently from many other countries around the world.  But there are these basic principles that I think we all have to try to work on and improve.  And I said this as somebody who’s about to leave office, so I have the benefit of almost eight years now of reflecting on how our system has worked and interacting with countries around the world who are constantly trying to improve their systems, as well.

Finally, our partnership I think can meet global challenges that no nation can solve by itself.  If we’re going to ensure the health of our people and the beauty of our planet, then development has to be sustainable.  Natural wonders like Ha Long Bay and Son Doong Cave have to be preserved for our children and our grandchildren.  Rising seas threaten the coasts and waterways on which so many Vietnamese depend.  And so as partners in the fight against climate change, we need to fulfill the commitments we made in Paris, we need to help farmers and villages and people who depend on fishing to adapt and to bring more clean energy to places like the Mekong Delta — a rice bowl of the world that we need to feed future generations.

And we can save lives beyond our borders.  By helping other countries strengthen, for example, their health systems, we can prevent outbreaks of disease from becoming epidemics that threaten all of us.  And as Vietnam deepens its commitment to U.N. peacekeeping, the United States is proud to help train your peacekeepers.  And what a truly remarkable thing that is — our two nations that once fought each other now standing together and helping others achieve peace, as well.  So in addition to our bilateral relationship, our partnership also allows us to help shape the international environment in ways that are positive.

Now, fully realizing the vision that I’ve described today is not going to happen overnight, and it is not inevitable.  There may be stumbles and setbacks along the way.  There are going to be times where there are misunderstandings.  It will take sustained effort and true dialogue where both sides continue to change.  But considering all the history and hurdles that we’ve already overcome, I stand before you today very optimistic about our future together.  (Applause.)  And my confidence is rooted, as always, in the friendship and shared aspirations of our peoples.

I think of all the Americans and Vietnamese who have crossed a wide ocean — some reuniting with families for the first time in decades — and who, like Trinh Cong Son said in his song, have joined hands, and opening their hearts and seeing our common humanity in each other.  (Applause.)

I think of all the Vietnamese Americans who have succeeded in every walk of life — doctors, journalists, judges, public servants.  One of them, who was born here, wrote me a letter and said, by “God’s grace, I have been able to live the American Dream…I’m very proud to be an American but also very proud to be Vietnamese.”  (Applause.)  And today he’s here, back in the country of his birth, because, he said, his “personal passion” is “improving the life of every Vietnamese person.”

I think of a new generation of Vietnamese — so many of you, so many of the young people who are here — who are ready to make your mark on the world.  And I want to say to all the young people listening:  Your talent, your drive, your dreams — in those things, Vietnam has everything it needs to thrive.  Your destiny is in your hands.  This is your moment.  And as you pursue the future that you want, I want you to know that the United States of America will be right there with you as your partner and as your friend.  (Applause.)

And many years from now, when even more Vietnamese and Americans are studying with each other; innovating and doing business with each other; standing up for our security, and promoting human rights and protecting our planet with each other — I hope you think back to this moment and draw hope from the vision that I’ve offered today.  Or, if I can say it another way — in words that you know well from the Tale of Kieu — “Please take from me this token of trust, so we can embark upon our 100-year journey together.”  (Applause.)

Cam on cac ban.  Thank you very much.  Thank you, Vietnam.  Thank you.  (Applause.)

END
12:43 P.M. ICT

Larry Ellison – Khi tài phiệt công nghệ trở thành “ông trùm truyền thông”

Trong lịch sử hiện đại, hiếm có thời điểm nào mà ranh giới giữa công nghệ, truyền thông và chính trị lại mờ nhạt như hôm nay. Bài báo mới đây của The New York Times (23/9/2025) về Larry Ellison – nhà sáng lập Oracle, một trong những tỷ phú công nghệ giàu nhất nước Mỹ – đã phác họa một bức tranh gây chấn động: Ellison và gia tộc của ông có thể sắp kiểm soát một đế chế truyền thông khổng lồ bao gồm CBS, Paramount, Warner, CNN, và cả TikTok Mỹ.

Từ cơ sở dữ liệu đến Hollywood

Larry Ellison vốn nổi tiếng là “database billionaire”, người đã dựng nên đế chế Oracle dựa trên các hợp đồng công nghệ và cơ sở dữ liệu cho chính phủ Mỹ. Nhưng vài năm trở lại đây, Ellison không chỉ dừng lại ở phần mềm. Ông – cùng con trai David Ellison (Skydance Media) – đang dịch chuyển sang lĩnh vực giải trí và truyền thông đại chúng.

Thương vụ thâu tóm Skydance–Paramount đã mở đầu cho sự hiện diện của gia tộc Ellison ở Hollywood. Giờ đây, với sự hậu thuẫn chính trị từ Tổng thống Donald Trump, Ellison có cơ hội thâu tóm cả CBS, CNN, Warner Bros, và đặc biệt là TikTok Mỹ, ứng dụng có tầm ảnh hưởng khổng lồ tới giới trẻ.

Larry Ellison là một trong những nhà đầu tư vào phiên bản TikTok mới của Mỹ. Harry How/Getty Images

Trong một bối cảnh pháp lý bình thường, đây là điều không thể xảy ra. Luật chống độc quyền và quy định của Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) sẽ không bao giờ cho phép một cá nhân kiểm soát cùng lúc mạng xã hội, kênh tin tức, và hệ thống giải trí lớn nhất nước Mỹ. Nhưng thời đại này đã khác – khi “được Trump ưu ái” quan trọng hơn cả luật pháp.

Chính trị mở đường cho quyền lực

Quốc hội đã ra lệnh cho ByteDance thoái vốn khỏi TikTok vì lý do an ninh quốc gia. Nhưng Tổng thống Trump đã bốn lần trì hoãn việc thực thi, tạo khoảng trống cho những “nhà đầu tư thân hữu” như Ellison bước vào.

Trong mắt Trump, Ellison không chỉ là một doanh nhân công nghệ. Ông là người bạn trung thành, từng tổ chức gây quỹ cho chiến dịch tranh cử, và nhiều lần công khai ủng hộ chính quyền. Đổi lại, Trump trao cho Ellison “chìa khóa” để vượt qua những rào cản pháp lý mà người khác không bao giờ vượt nổi.

Điều này có nghĩa là gì? Nếu thương vụ thành công, Ellison sẽ trở thành ông trùm truyền thông quyền lực nhất nước Mỹ, thậm chí vượt mặt cả Rupert Murdoch. Không chỉ kiểm soát dòng chảy thông tin, ông còn nắm quyền chi phối văn hóa và dư luận qua phim ảnh, truyền hình và mạng xã hội.

Nguy cơ “siêu cỗ máy tuyên truyền”

Vấn đề không nằm ở chỗ một nhà đầu tư giàu có muốn mua thêm tài sản. Điều đáng lo ngại chính là sự tập trung quyền lực thông tin vào tay một nhóm thân tín chính trị:

  • Truyền hình (CBS, CNN): ảnh hưởng đến hàng chục triệu gia đình Mỹ mỗi tối.

  • Hollywood (Paramount, Warner, Skydance): định hình văn hóa đại chúng và cách người Mỹ nhìn nhận thế giới.

  • Mạng xã hội (TikTok Mỹ): kiểm soát không gian thông tin của hàng trăm triệu thanh niên Mỹ.

Khi tất cả hội tụ vào tay Ellison – một nhân vật thân tín của Trump – thì nguy cơ hình thành một siêu “propaganda machine” là điều hoàn toàn có thật.

Thời đại của sự dung hợp quyền lực

Bài học từ Murdoch và Fox News cho thấy: một tập đoàn truyền thông có thể định hình cả bầu cử tổng thống, làm nghiêng cán cân chính trị. Nhưng Ellison có thứ Murdoch chưa từng có: dữ liệu và công nghệ. Ông vừa có trong tay nền tảng công nghệ (Oracle, cơ sở dữ liệu), vừa sở hữu Hollywood và mạng xã hội, vừa được che chở bởi quyền lực chính trị.

Trong bối cảnh đó, nguy cơ không chỉ là bóp méo sự thật, mà còn là lập trình dư luận ở mức độ sâu hơn. Khi văn hóa, tin tức và mạng xã hội cùng bị kiểm soát, xã hội Mỹ sẽ đối diện với một “trật tự truyền thông mới” – nơi sự đa dạng thông tin bị thay thế bằng một giọng nói duy nhất.

Kết luận

Larry Ellison không chỉ là một tỷ phú công nghệ muốn mở rộng sang truyền thông. Ông đang trở thành biểu tượng của một thời đại quyền lực mới, nơi công nghệ – truyền thông – chính trị dung hợp thành một khối quyền lực khó kiểm soát.

Và đó chính là lời cảnh báo: nếu chúng ta không bảo vệ nguyên tắc pháp lý và sự đa dạng truyền thông, thì ngày mai, dư luận Mỹ – và thế giới – có thể được định hình bởi tham vọng của một vài cá nhân thân cận quyền lực, chứ không còn bởi sự thật.

Larry Ellison, một ông trùm truyền thông không ai sánh bằng

Tỷ phú cơ sở dữ liệu và con trai ông, David, là những người được Trump sủng ái. Gia đình này có thể sớm kiểm soát một đế chế bao gồm CBS, Paramount, Warner, CNN và một phần TikTok.

David Streitfeld and

Khi Larry Ellison bước sang thập niên thứ chín vào năm 2024, lối sống xa hoa của ông dường như đang phai nhạt dần. Tương lai hứa hẹn ít cuộc đua thuyền ly kỳ và những trận không chiến giả trên Thái Bình Dương hơn, thay vào đó là những hoạt động từ thiện bảo vệ di sản. Các ông trùm phần mềm cũng già đi.

Thay vào đó, trong một chương mới đáng chú ý, ngay cả theo tiêu chuẩn của những người thực sự giàu có, ông Ellison đột nhiên quyết định trở thành một ông trùm truyền thông, một người có danh mục đầu tư và quyền lực có thể vượt qua cả những người tiền nhiệm lừng lẫy như Hearst và Pulitzer.

Oracle, công ty công nghệ mà ông Ellison đồng sáng lập và vẫn nắm quyền kiểm soát sau gần nửa thế kỷ, là một trong những nhà đầu tư vào phiên bản TikTok mới được xây dựng tại Mỹ, ứng dụng video ngắn có 170 triệu người dùng tại Mỹ. Ông Ellison sở hữu hơn 40% cổ phần của Oracle và là giám đốc công nghệ của công ty.

Nhiều yếu tố của TikTok mới vẫn chưa rõ ràng, bao gồm tỷ lệ sở hữu chính xác và ai sẽ điều hành công ty. Giả định an toàn duy nhất là ứng dụng này sẽ được kiểm soát bởi những người có thiện cảm với Tổng thống Trump. Gia đình Murdoch, chủ sở hữu của Fox News, “có thể” sẽ là một nhà đầu tư khác, tổng thống cho biết vào cuối tuần trước trong một cuộc phỏng vấn trên Fox News.

Quốc hội đã ra lệnh cho công ty Trung Quốc ByteDance thoái vốn khỏi TikTok vì lý do an ninh quốc gia, theo một đạo luật mà ông Trump đã trì hoãn việc thực thi.

Với sức hấp dẫn đáng kể đối với giới trẻ, TikTok là một món hời. Oracle đã có mối quan hệ với ứng dụng này, sử dụng máy chủ đám mây của mình để xử lý dữ liệu người dùng Hoa Kỳ. Nhưng thỏa thuận mới này có thể giúp Oracle tiếp cận mảng kinh doanh hướng đến người tiêu dùng. Dự án lớn nhất của Oracle vào lĩnh vực kinh doanh tiêu dùng, máy tính mạng vào những năm 1990, đã thất bại.
TikTok chỉ là một phần trong danh mục truyền thông đang mở rộng nhanh chóng của gia đình Ellison. Con trai của ông Ellison, David, người gần đây đã đạt được thỏa thuận trị giá 8 tỷ đô la cho Paramount và CBS và đang bận rộn tạo dấu ấn riêng cho họ, được cho là đang chuẩn bị một nỗ lực lớn hơn nhiều để mua lại Warner, bao gồm cả CNN.

Con trai của Larry Ellison, David, gần đây đã đạt được thỏa thuận trị giá 8 tỷ đô la cho Paramount và CBS. Jessica Chou cho tờ The New York Times

Vào bất kỳ thời điểm nào khác, những rào cản pháp lý để sở hữu TikTok, CBS và CNN cùng với một phần lớn Hollywood sẽ là điều không thể vượt qua. Đây là một thời đại hoàn toàn khác, khi việc được ông Trump ưu ái là vô cùng quan trọng. Hồi tháng 1, tổng thống đã nói rằng ông muốn Elon Musk, lúc đó là cố vấn thân cận, hoặc ông Ellison mua lại TikTok.

Các gia đình quyền lực đã sở hữu những mảng truyền thông có ảnh hưởng của Mỹ trong thế kỷ trước, nhưng tầm ảnh hưởng của họ thường bị hạn chế bởi địa lý hoặc các yếu tố khác. Gia đình Chandler, chủ sở hữu của tờ Los Angeles Times, đã nắm quyền lực ở Nam California trong nhiều thập kỷ, nhưng lại có rất ít quyền lực ở những nơi khác. Rupert Murdoch sở hữu Fox và The Wall Street Journal, nhưng nhiệm vụ biên tập của họ không hoàn toàn chồng chéo.

Trong kỷ nguyên số, những hạn chế đang dần được xóa bỏ.

“Mọi thứ đang được củng cố”, Michael Socolow, một nhà sử học truyền thông tại Đại học Maine, cho biết. “Điều làm nên sự khác biệt của những thương vụ này là chúng diễn ra trên nhiều nền tảng. Việc có cơ hội thiết lập một kênh biên tập trên TikTok, CBS News và CNN — đó là một thế giới mới.”

Paramount từ chối bình luận.

Tiền bạc, một rào cản truyền thống đối với các đế chế truyền thông, không phải là trở ngại đối với ông Ellison. Gần đây, giá trị cổ phần Oracle của ông đã tăng khoảng 100 tỷ đô la, giúp ông trở thành người giàu nhất thế giới trong một thời gian ngắn. Theo Chỉ số Tỷ phú Bloomberg, ông Ellison hiện sở hữu khối tài sản ròng trị giá 367 tỷ đô la. Tài sản của ông Musk còn cao hơn.

Ông Ellison, 81 tuổi, đã hiện diện tại Thung lũng Silicon lâu hơn bất kỳ nhà sáng lập nào khác. Năm 1977, ông và hai đồng nghiệp thành lập Phòng thí nghiệm Phát triển Phần mềm, vài năm sau được đổi tên thành Oracle, theo tên sản phẩm cơ sở dữ liệu chính của công ty.

Ông không hẳn là một thiên tài kỹ thuật mà là một giám đốc bán hàng. Oracle đã trải qua một vài lần suýt phá sản, nhưng vẫn tồn tại và thậm chí còn phát triển thịnh vượng, không giống như phần lớn các công ty phần mềm cùng thời.

Trên chặng đường phát triển, ông Ellison là hình mẫu cho một doanh nhân công nghệ làm việc hết mình và chơi hết mình. Ông đã kết hôn nhiều lần và sở hữu khối lượng lớn bất động sản, bao gồm gần như toàn bộ đảo Lanai ở Hawaii. Ông cũng sở hữu một máy bay chiến đấu SIAI-Marchetti S.211, được mua từ Hải quân Ý, và được cho là đã sử dụng nó để diễn tập không chiến với con trai mình.

“Thường thì, tôi sẽ họp với ai đó và người đó sẽ nói, ‘Ôi trời ơi, anh chẳng giống chút nào so với những gì tôi nghĩ về anh cả,’” ông Ellison chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn năm 2012. “Tất nhiên, đó là một tiêu chuẩn thấp. Tôi đâu có cắn đứt đầu một con vật nhỏ trước cuộc họp.”

Trước đây, ông Ellison chưa bao giờ thể hiện sự quan tâm nhiều đến truyền thông ngoài việc sử dụng nhiều cuộc phỏng vấn vào những năm 1990 để chỉ trích nhà đồng sáng lập Microsoft Bill Gates, một nhân vật bị ghét cay ghét đắng từ lâu. Con trai ông đang trong quá trình đàm phán để mua lại The Free Press, một ấn phẩm kỹ thuật số mới, tự thể hiện mình là đối lập với truyền thông tin tức truyền thống. Ấn phẩm này do Bari Weiss điều hành, người có khả năng sẽ được giao một phần quyền giám sát CBS. Bà Weiss trước đây từng làm biên tập viên cho mục ý kiến ​​của tờ The New York Times và thỉnh thoảng viết bài luận.

Ông Ellison, người không trả lời email để bình luận, đang tích lũy tiền nhanh hơn cả tốc độ ông có thể lập kế hoạch cho đi. Gần đây, ông bận rộn với một tổ chức từ thiện vì lợi nhuận đang phát triển mạnh mẽ tại Đại học Oxford, nơi ông cho biết sẽ “tập trung nguồn lực”. Nhưng trong những tuần gần đây, viện nghiên cứu mang tên Viện Công nghệ Ellison đã phải chịu đựng một số biến động tương tự như những thành tựu từ thiện trước đây của ông Ellison.

Vị tỷ phú này có tiền sử lâu dài về việc thay đổi suy nghĩ về công việc từ thiện của mình, hoặc bất đồng quan điểm với những người ông thuê để giám sát nó. Tháng này, ông Ellison đã chia tay người mà ông đã thuê vào năm ngoái để xây dựng E.I.T., John Bell, một nhà khoa học nổi tiếng, người đã mang lại uy tín ngay lập tức cho dự án.

Văn hóa khoa học của Anh ít mang tính thương mại hơn so với Hoa Kỳ, một tình trạng mà viện này muốn thay đổi bằng cách phát triển nhiều công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực khoa học sự sống và các lĩnh vực khác.

“Chúng tôi không có ai như ông ấy ở Anh,” ông Bell nói về ân nhân của mình. “Vì vậy, việc ông ấy đến đây và nói, ‘Tôi sẽ xây dựng di sản của mình tại Anh,’ thực sự là một bước tiến đáng kinh ngạc. Và ông ấy có thể đi bất cứ đâu.”

Vào giữa tháng 8, ông Ellison đã mời ông Santa Ono, cựu hiệu trưởng Đại học Michigan, với một chức danh dường như cao cấp hơn ông Bell. Ông Ellison nói rằng ông Bell sẽ “hợp tác” với ông Ono. Nhưng hai tuần sau, ông Bell đã nhanh chóng tuyên bố rời đi, gọi viện này là một “dự án rất thách thức”.

Theo một người thân cận với viện, ông Ellison rất tích cực tham gia điều hành viện, và thường xuyên liên lạc với ông Bell cũng như tham dự các cuộc họp tại văn phòng của viện ở Oxford. Ban lãnh đạo viện đã có những căng thẳng về cách tốt nhất để thương mại hóa nghiên cứu khoa học của ông Ellison, cùng với những câu hỏi dai dẳng về việc viện có thể tin tưởng ông Ellison đến mức nào trong việc thực hiện các cam kết tài chính của mình.

David Streitfeld viết về công nghệ, những người tạo ra nó và cách nó ảnh hưởng đến thế giới xung quanh. Ông hiện đang làm việc tại San Francisco.

Teodore Schleifer là phóng viên của tờ Times, chuyên đưa tin về các tỷ phú và tác động của họ đến thế giới.

So sánh chính sách mới H-1B với các chính sách visa trước đây (thời Trump, thời Biden)

0

Dưới đây là so sánh giữa chính sách mới của Trump năm 2025 (phí $100,000 + thay đổi xét tuyển) với các chính sách visa trước đây — bao gồm thời Trump (nhiệm kỳ trước) và thời Biden — về visa H-1B và các chính sách liên quan.


1. Bối cảnh chung & mục tiêu

Yếu tố Chính sách mới 2025 Thời Trump trước (2017–2021) Thời Biden (2021 đến nay)
Mục tiêu chính được công bố Giảm lạm dụng visa H-1B, tránh việc doanh nghiệp tuyển lao động nước ngoài lương thấp để “hạ bệ” lao động Mỹ, ưu tiên lao động chất lượng cao, hạn chế việc thay thế công nhân Mỹ Tăng kiểm soát chương trình H-1B, siết chặt quy định, hạn chế nhập cư “lạm dụng visa” (ví dụ cá gói “Buy American, Hire American”) Nới lỏng các hạn chế, giảm tỷ lệ từ chối, cải tổ quy định để ổn định môi trường visa dài hạn
Phương thức can thiệp Thu phí lớn ( $100,000 cho hồ sơ mới ), thay đổi cách xét chọn (ưu tiên lương cao) Sử dụng thay đổi quy định, hướng dẫn thực thi, một số lệnh hành pháp (ví dụ hạn chế nhập cảnh trong COVID-19) Sửa quy định, hướng dẫn rõ ràng, khôi phục các chính sách bị ràng buộc trước đó, giảm tỷ lệ từ chối

2. Về phí, lệ phí & chi phí áp dụng

  • Chính sách mới (2025):

    • Yêu cầu doanh nghiệp nộp $100,000 kèm theo hồ sơ H-1B mới để xin xét nhập cảnh (petition) cho người lao động bên ngoài Hoa Kỳ. The White House+2The White House+2

    • Phí này chỉ áp dụng cho hồ sơ mới, không áp dụng cho việc gia hạn, không áp dụng cho người đã có H-1B trước thời điểm bắt đầu chính sách. Reuters+2The White House+2

    • Chính sách cũng cho phép miễn trừ (exemptions) theo “lợi ích quốc gia” trong một số trường hợp. The White House+1

  • Thời Trump trước (2017–2021):

    • Không có mức phí “khổng lồ” mới như $100,000; lệ phí vẫn ở mức thông thường theo quy định USCIS / Bộ Nội vụ.

    • Trump từng ký lệnh hành pháp “Buy American, Hire American” (2017) để thúc đẩy thay đổi cách xét visa để ưu tiên người có lương cao hơn, nhưng không đến mức thu phí cực lớn. Wikipedia+1

    • Trong giai đoạn COVID-19 (2020), Trump áp dụng các lệnh tạm đình chỉ nhập cảnh của người mang visa không di dân (non-immigrant visas, bao gồm H-1B) để bảo vệ việc làm người Mỹ trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Wikipedia+1

  • Thời Biden:

    • Không có chính sách thu phí bổ sung lớn như vậy.

    • Biden hồi đầu nhiệm kỳ đã hướng đến việc làm cho hệ thống visa ổn định hơn, giảm sự gián đoạn trong xét duyệt, đảm bảo người xin visa không bị từ chối một cách tùy tiện hơn. Pew Research Center+2Fisher Phillips+2

    • Có các thay đổi quy tắc để định nghĩa rõ ai đủ tiêu chuẩn, mở rộng khả năng áp dụng của visa H-1B trong một số trường hợp. Fisher Phillips


3. Về cách chọn hồ sơ / hệ thống xét chọn

  • Chính sách mới (2025):

    • Bỏ cách xét chọn “lottery” (chọn ngẫu nhiên khi quá nhiều hồ sơ) sang một hệ thống “cân nhắc theo lương” — hồ sơ có mức lương cao hơn sẽ được ưu tiên hơn. Reuters+2The Guardian+2

    • Mục tiêu là hạn chế các hồ sơ “lương thấp” được chấp thuận, khuyến khích tuyển dụng người nước ngoài chất lượng cao hơn. The Guardian+2Reuters+2

  • Thời Trump trước (2017–2021):

    • Không có chuyển bỏ nguyên hệ thống lottery, nhưng có nhiều hướng dẫn và thay đổi thực thi để ưu tiên hồ sơ “có giá trị cao hơn” hoặc sàng lọc chặt hơn hồ sơ yếu.

    • Ví dụ, từ năm 2020, USCIS bắt đầu yêu cầu đăng ký trước (registration system) để lọc hồ sơ trước khi nộp trọn gói, để giảm gánh nặng cho cơ quan xét duyệt. American Immigration Council+2Wikipedia+2

  • Thời Biden:

    • Biden tiếp tục giữ hệ thống đăng ký trước, ổn định quy trình đó. American Immigration Council+1

    • Có nỗ lực tinh chỉnh tiêu chí lựa chọn để minh bạch hơn, định nghĩa rõ “occupation chuyên môn”, “bằng cấp tương đương”, etc. Fisher Phillips


4. Về tỷ lệ từ chối / chính sách thực thi

  • Chính sách mới (2025):

    • Trong thông báo, chính quyền Trump khẳng định quyền từ chối những hồ sơ không đi kèm với phí $100,000 (nếu là hồ sơ mới) khi người lao động ở ngoài Hoa Kỳ. The White House+1

    • Do chính sách mới gây tranh cãi, rất có thể sẽ có nhiều vụ kiện để kiểm tra tính hợp hiến, tính hợp pháp của việc yêu cầu phí cao như vậy.

  • Thời Trump trước (2017–2021):

    • Tỷ lệ từ chối hồ sơ H-1B tăng cao trong giai đoạn đầu, đặc biệt từ năm 2018, khi chính quyền siết chặt kiểm tra các hồ sơ, từ chối nhiều hơn. Theo dữ liệu, từ chối hồ sơ mới từ ~6% (2015) tăng đến ~24% vào năm 2018. American Immigration Council

    • Sau đó, một số kháng cáo hoặc tác động pháp lý làm cho tỷ lệ từ chối giảm. American Immigration Council

  • Thời Biden:

    • Tỷ lệ từ chối giảm xuống dưới 3% trong nhiều năm, do việc giảm mức kiểm tra quá gắt và sửa đổi quy định từ chối tùy tiện. Pew Research Center

    • Biden cũng tái xem xét và đảo lại một số lệnh nhập cảnh hoặc hạn chế mà Trump áp đặt trong giai đoạn trước.


5. Về trường hợp đặc biệt, miễn trừ, ngoại lệ

  • Chính sách mới (2025):

    • Cho phép miễn trừ theo “lợi ích quốc gia” trong các trường hợp nhất định. The White House+2The White House+2

    • Không áp dụng đối với những người đã có H-1B trước khi chính sách bắt đầu, và không áp dụng khi gia hạn hoặc chuyển đổi trong nội bộ. Reuters+2The White House+2

  • Thời Trump trước (2017–2021):

    • Có một số ngoại lệ trong các chương trình giáo dục, viện nghiên cứu, hoặc tổ chức phi lợi nhuận, nơi quota hoặc một số kiểm tra được lỏng hơn.

    • Trong thời đại COVID-19, một số lệnh ngoại lệ áp dụng để cho phép gia hạn nhập cảnh hoặc gia hạn visa trong trường hợp đặc biệt.

  • Thời Biden:

    • Mở rộng hoặc giữ các điều kiện ngoại lệ cho các trường hợp nghiên cứu, giáo dục, hoặc người có đóng góp khoa học cao.

    • Cố gắng giữ sự ổn định về tình trạng visa cho người ở trong nước, giảm cách chính sách thay đổi bất ngờ.


6. Những điểm khác biệt nổi bật & rủi ro

  • Mức độ “của cải rào cản” (barrier to entry):

    • Chính sách mới đặt ra mức phí cực cao, làm nhiều công ty, đặc biệt là startups hoặc tổ chức nhỏ, khó có khả năng thuê người lao động nước ngoài.

    • Các chính sách trước (Trump trước, Biden) thường tập trung vào quy định, kiểm tra, hướng dẫn chặt chẽ, chứ không đặt “hàng rào tài chính” khủng như vậy.

  • Rủi ro pháp lý & thách thức hiến pháp:

    • Việc thu phí $100,000 có thể bị thách thức là vượt thẩm quyền luật di trú vốn được Quốc hội quy định — do USCIS chỉ được thu phí “hợp lý” để bù chi phí hành chính.

    • Tranh luận về việc quyền hành pháp có thể thêm phí lớn mà không có sự thông qua của Quốc hội.

    • Trong các chính sách trước, nhiều thay đổi bị tòa án cản trở, nhiều lệnh hành pháp bị kiện và bị chặn.

  • Hiệu ứng lên thị trường lao động & offshoring (chuyển việc ra nước ngoài):

    • Chính sách mới có nguy cơ khiến các công ty chuyển nhân lực ra nước ngoài, tăng chất lượng công việc từ xa, giảm tuyển lao động tại Mỹ — điều mà chính sách mới tự nó muốn hạn chế.

    • Trong thời Trump trước, có lo ngại rằng siết chặt visa làm giảm khả năng thu hút nhân tài, nhưng mức độ rủi ro thấp hơn, không đặt gánh nặng tài chính lớn như hiện nay.

    • Trong thời Biden, chính sách ổn định visa góp phần giữ nhân tài, duy trì dòng người lao động chất lượng cao nhập cảnh hợp pháp.

  • Tác động đối với người xin visa và gia đình:

    • Chính sách mới tạo ra rủi ro lớn hơn cho người ngoài nước muốn nộp visa mới; chi phí cao khiến họ có thể từ bỏ hoặc giảm cơ hội xin visa.

    • Trong thời Trump trước, một số người bị ảnh hưởng do từ chối cao hoặc thay đổi chính sách giữa nhiệm kỳ.

    • Trong thời Biden, người có visa H-1B và gia đình có ít bị thay đổi đột ngột hơn, môi trường ổn định hơn.

Op-Ed: Khi Thuế Quan Siết Cổ Tiêu Dùng Mỹ – Và Vì Sao Báo Cáo “Giảm Thâm Hụt” Chỉ Là Tính Cua Trong Lỗ

Trong nhiều tháng qua, chính quyền Trump tự hào khoe rằng thuế quan sẽ “đem về hàng ngàn tỷ đô la” và thậm chí CBO còn ước tính có thể giúp giảm thâm hụt ngân sách 4.000 tỷ USD trong thập kỷ tới. Nhưng con số trên giấy khác rất xa thực tế ngoài đời, nơi người tiêu dùng Mỹ đang thắt chặt hầu bao, các kệ hàng trống dần, và ngành bán lẻ lao đao.

Tiêu dùng nội địa suy yếu: Bức tranh rõ ràng tại quầy thanh toán

Là một shipper, tôi nhìn thấy tận mắt cảnh khách hàng cân nhắc từng đồng. Nhiều người bỏ bớt hàng ra khi ra đến quầy vì túi tiền không kham nổi. Báo cáo Lao động gần đây cho thấy hàng chục nghìn lao động bán lẻ bị sa thải, trong khi cổ phiếu Walmart – thước đo sức khỏe tiêu dùng Mỹ – lao dốc.

Khi bán lẻ giảm, doanh nghiệp nhập khẩu ít hàng hơn. Mà ít hàng nhập thì lấy đâu ra nguồn thu thuế ổn định? “Thu hàng ngàn tỷ” hóa ra chỉ là tính cua trong lỗ – đếm những con số giả định thay vì dòng tiền thực có thể co lại bất cứ lúc nào.

So sánh quốc tế: Mỹ đang tự làm khó mình

  • Châu Âu: Dù cũng vật lộn với lạm phát năng lượng, EU vẫn duy trì các chuỗi cung ứng mở, FTA với Việt Nam, Ấn Độ, Nhật Bản đang giúp thương mại song phương tăng trưởng ổn định. EVFTA một mình đã đưa kim ngạch EU–Việt Nam gần 300 tỷ USD chỉ trong 5 năm.

  • Châu Á: Các quốc gia như Việt Nam, Indonesia tận dụng ưu đãi đầu tư để hút dòng vốn FDI, trong khi Mỹ lại khiến nhà đầu tư lo sợ vì chính sách thuế quan thất thường. Theo Peterson Institute, bất ổn chính sách có thể làm giảm FDI vào Mỹ tới 30%.

Mỹ, thay vì hưởng lợi từ toàn cầu hóa, đang tự cô lập chính mình.

Gánh nặng kép cho người lao động Mỹ

  • Thuế quan = Thuế nhập khẩu, nhưng thực chất là thuế tiêu dùng, vì doanh nghiệp đẩy chi phí sang người mua.

  • Chi tiêu công trong và sau đại dịch khiến lạm phát tăng, Fed phải nâng lãi suất mạnh tay. Kết quả: người Mỹ mắc kẹt giữa giá hàng hóa cao, nợ thẻ tín dụng kỷ lục, và chi phí vay nợ đắt đỏ.

  • Giảm thuế cho giới giàu lại khoét sâu thêm áp lực ngân sách, khiến chính phủ càng phải dựa vào “nguồn thu thuế quan” – thực chất lấy tiền từ túi lao động nghèo và trung lưu.

Giải pháp chính sách: Từ “đánh thuế để tính điểm” sang “tái cân bằng thực chất”

  1. Ổn định chính sách thương mại: Thay vì các đợt thuế chớp nhoáng, Mỹ cần lộ trình minh bạch và phối hợp với đồng minh.

  2. Đầu tư vào năng suất nội địa: Thay vì ép Apple “Made in USA” bằng thuế, hãy đầu tư vào đào tạo, công nghệ, và hạ tầng sản xuất thông minh để Mỹ thật sự cạnh tranh.

  3. Hỗ trợ trực tiếp cho lao động: Các gói giảm thuế, hỗ trợ thu nhập nên nhắm thẳng vào tầng lớp lao động – những người chịu ảnh hưởng nặng nhất – thay vì chỉ cắt giảm thuế cho giới giàu.

  4. Học từ mô hình quốc tế: EU, Nhật, Hàn đều chứng minh rằng thương mại tự do đi kèm tiêu chuẩn công bằng có thể vừa bảo vệ công nhân, vừa giữ chuỗi cung ứng ổn định.

Kết luận
Thuế quan không phải là “quỹ tài sản quốc gia” như Trump rao giảng. Nó là hóa đơn gửi thẳng đến từng gia đình Mỹ. Nếu Mỹ tiếp tục dựa vào chính sách “thuế quan + khẩu hiệu”, nền kinh tế sẽ không chỉ mất sức mua mà còn mất vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Cái giá đó, chắc chắn không đáng để trả.