Tìm hiểu tại sao đảng Dân chủ thất bại?

5
26

Minh-Le Pham

Từ tối ngày 5 tháng 11, tôi chắc cũng như các bạn và gần 70 triệu người đã bỏ phiếu cho bà Harris đều trải qua quá trình bị sốc và vẫn chưa hoàn hồn sau cơn ác mộng. Tôi đã khóa tất cả các cửa ngõ tin tức để cho tâm mình yên xuống bớt. Nhưng rồi đây đó vẫn lọt vào những ngón tay chỉ vào nhau để đổ lỗi. Và có lần tôi cũng nhận được 1 cái text từ nhóm vận động tranh cử trách cứ như sau: “nói thật đi, bạn có đi bỏ phiếu cho Kamala Harris không?” rồi họ lại xin tiền… Thật là họ (DNC) không hiểu gì hết, chỉ biết đổ lỗi cho người khác, không ngồi xuống phân tích học hỏi kinh nghiệm chút nào. Đúng ra là sau khi bà Hillary Clinton bị thua vì thiếu sự ủng hộ của những “tiểu bang chiến trường”, họ đã nên làm chuyện ngồi xuống nhìn lại mình rồi. (Biden thắng cử là nhờ người ta sợ Trump sau 4 năm, và nhờ Biden vốn dĩ là người đi gần tầng lớp lao động suốt mấy chục năm nên được các tiểu bang chiến trường (mà dân lao động chiếm đa số) tin tưởng ông.)

Có câu ngạn ngữ: “Người đổ lỗi cho người khác còn phải đi một chặng đường dài trên hành trình của mình. Người tự đổ lỗi cho mình đã đi được nửa đường. Người không đổ lỗi cho ai đã đến đích.”

Ông Bernie Sanders là người duy nhất đã dám phát biểu: “Chẳng có gì ngạc nhiên khi một Đảng Dân chủ đã bỏ rơi giai cấp công nhân sẽ thấy rằng giai cấp công nhân cũng đã bỏ rơi họ.” (It should come as no great surprise that a Democratic Party which has abandoned working class people would find that the working class has abandoned them). Cũng nên nói thêm, Bernie Sanders là người đã bị đảng DC chơi 1 cú nặng lúc tranh cử với bà Clinton khi ông đã thắng sơ bộ nhưng đảng vẫn cho ra rìa vì ông không thuộc “the establishment”, để họ bơm bà Clinton lên. Vậy mà ông vẫn cao thượng và ủng hộ bà Harris lần này, tuy ông đã rời bỏ đảng DC để trở thành Independent. Ông là một người suốt đời ủng hộ tầng lớp lao động thật sự, không hề đi theo Wall Street và những người sống trong tháp ngà. Andrew Yang năm 2020 cũng đã cảnh báo đảng DC như ông Sanders, trong khi tranh cử sơ bộ đảng DC, và có phân tích đầy đủ trong mấy cuốn sách của anh như “The War on Normal People”, “Forward: Notes on the Future of Our Democracy”. Nhưng Andrew Yang cũng bị đảng DC cho ra rìa, MSNBC là công cụ mạnh nhất của đảng DC (giống như Fox News của đảng CH), đã có những hành động thô bỉ kẻ cả với Andrew Yang. Rốt cuộc Andrew cũng phải rút ra khỏi đảng DC. Những người như Bernie, Andrew là những người thật sự có những chương trình tranh cử đề nghị những giải pháp thực tế khả thi để nâng tầng lớp lao động lên, và không bị ràng buộc vào những nhóm vận động hành lang nào hết, tức là họ cũng không được sự ủng hộ của những công dân tháp ngà (the elitists).

Phát biểu của ông Bernie Sanders, thoạt nghe có vẻ rất nặng và rất thiếu đoàn kết, nhưng ngẫm lại thấy vì ông quá chịu đựng rồi, phải thốt nên như thế. Ông đã gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh vì không còn cách mềm mỏng nào khác.

Năm 2020, số người bầu cho Trump là khoảng 74 triệu, cho Biden khoảng 81 triệu. Năm 2024, số người bầu cho Trump là khoảng 73 triệu, cho Harris chỉ có 69 triệu. Điều này cho thấy Trump KHÔNG được ủng hộ nhiều hơn trước, mà là những người bầu cho đảng DC đã nản lòng, không muốn đi bầu nữa.

Mong sao mọi người, nhất là “the establishment” của đảng DC sẽ dám nhìn thẳng vấn đề để sắp đặt đường đi nước bước cho tương lai, đừng quá xa rời thực tế nữa, nếu không thì cũng sẽ không còn đảng DC nữa, cũng như Đảng CH đã bị thay thế bằng đảng Trump.

=====================

Để thử tìm hiểu tại sao ông Bernie Sanders lại nói rằng “đảng DC đã bỏ rơi giai cấp công nhân”, tôi bèn hỏi ChatGPT và được trả lời bằng 2 lập luận tương tự như sau:

Đây là Lập luận thứ nhất

Lập luận này cho rằng Đảng Dân chủ đã từ bỏ giai cấp công nhân thường được đưa ra dưới góc độ đảng này đang rời xa cơ sở giai cấp công nhân truyền thống của mình, đặc biệt là trong thời kỳ hậu Thế chiến II. Sự thay đổi này có liên quan đến nhiều yếu tố chính trị, kinh tế và văn hóa, dẫn đến những lời chỉ trích từ cả những nhà phê bình cánh tả và cử tri thuộc giai cấp công nhân, những người cảm thấy bị đảng bỏ rơi. Sau đây là một số điểm chính thường được đưa ra bởi những người cho rằng Đảng Dân chủ đã từ bỏ giai cấp công nhân:

1. Chấp nhận các chính sách kinh tế tân tự do (Embrace of the Neoliberal Economic Policies):

– Bắt đầu từ những năm 1980 và tiếp tục đến những năm 1990, nhiều nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ, đặc biệt là dưới thời Tổng thống Bill Clinton và Barack Obama, đã chấp nhận các chính sách kinh tế tân tự do. Điều này bao gồm các hiệp định thương mại tự do như NAFTA, bãi bỏ quy định và nhấn mạnh vào các giải pháp do thị trường thúc đẩy cho các vấn đề kinh tế. Những chính sách này bị các nhà phê bình coi là có hại cho cộng đồng giai cấp công nhân, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp như sản xuất, nơi chuyển giao việc làm (outsourcing) cho các quốc gia khác.

– Việc mất đi những công việc công nghiệp này ở Rust Belt và các khu vực khác được coi là một đòn giáng mạnh vào tầng lớp lao động, với rất ít hoặc không có sự đền bù nào từ các chính sách do Đảng Dân chủ thúc đẩy.

2. Tập trung vào Chính trị Bản sắc (Identity Politics) hơn là Giai cấp Kinh tế (Economic Class):

– Một số người cho rằng, trong những năm gần đây, Đảng Dân chủ đã tập trung nhiều hơn vào chính trị bản sắc—nhấn mạnh các vấn đề như chủng tộc, giới tính và khuynh hướng tình dục—thay vì các chính sách dựa trên giai cấp kinh tế có lợi trực tiếp cho tầng lớp lao động. Mặc dù các vấn đề công lý xã hội rất quan trọng, nhưng những người chỉ trích cho rằng điều này đã khiến các cử tri da trắng thuộc tầng lớp lao động xa lánh, đặc biệt là ở các tiểu bang dao động, nơi mà họ phải tranh đấu cho miếng cơm manh áo hàng ngày của họ.

– Sự thay đổi này đã được nhìn thấy trong sự liên kết ngày càng tăng của Đảng Dân chủ với giới tinh hoa quốc tế (cosmopolitan elites) hơn, các chuyên gia thành thị (urban professionals) và các cử tri có trình độ đại học, khiến các cử tri thuộc tầng lớp lao động cảm thấy như những khó khăn kinh tế của họ đang bị bỏ qua để ủng hộ các mối quan tâm tập trung vào văn hóa hoặc bản sắc.

3. Mối quan hệ với Wall Street và Ảnh hưởng của Doanh nghiệp (Corporate Influence)

– Đảng Dân chủ cũng bị chỉ trích vì mối quan hệ ngày càng tăng với Wall Street, công ty công nghệ lớn và các nhà tài trợ doanh nghiệp, nhiều người coi đây là sự thay đổi so với trọng tâm lịch sử của đảng là các công đoàn lao động và quyền của người lao động. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và việc chính quyền Obama cứu trợ các tổ chức tài chính lớn sau đó thường được trích dẫn như một ví dụ về cách Đảng Dân chủ ưu tiên lợi ích của giới tinh hoa tài chính hơn là người lao động bình thường.

– Cánh cửa xoay vòng giữa chính phủ và doanh nghiệp lớn, với các cựu quan chức Dân chủ nắm giữ các vị trí tại các tập đoàn lớn hoặc các công ty vận động hành lang, đã góp phần tạo nên nhận thức rằng đảng này chịu ơn các lợi ích của doanh nghiệp nhiều hơn là tầng lớp lao động.

4. Không giải quyết được tình trạng trì trệ và bất bình đẳng tiền lương

– Những người chỉ trích cho rằng Đảng Dân chủ đã không giải quyết được tình trạng trì trệ tiền lương (wage stagnation), bất bình đẳng gia tăng và sự xói mòn của mạng lưới an sinh xã hội. Trong khi một số đảng viên Dân chủ ủng hộ các chính sách như tăng lương tối thiểu hoặc mở rộng quyền tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhiều đề xuất trong số này hoặc là bị làm loãng hoặc không được theo đuổi một cách tích cực, dẫn đến sự bất mãn trong số các cử tri thuộc tầng lớp lao động.

– Trong khi đảng Cộng hòa thúc đẩy cắt giảm thuế và bãi bỏ quy định có lợi cho người giàu, nhiều người cho rằng đảng Dân chủ chưa làm đủ để chống lại các chính sách này bằng các cải cách kinh tế táo bạo nhằm nâng cao tầng lớp lao động.

5. Sự xa lánh việc ủng hộ của công đoàn

– Các công đoàn lao động, vốn từng là nền tảng của cơ sở của Đảng Dân chủ, đã chứng kiến sự suy giảm ảnh hưởng trong những thập kỷ gần đây. Nhiều đảng viên Dân chủ, đặc biệt là trong chính quyền Clinton, đã chuyển hướng khỏi sự ủng hộ mạnh mẽ đối với các công đoàn, đặc biệt là khi họ tập trung hơn vào việc thu hút các cử tri ôn hòa và bảo thủ. Sự suy giảm quyền lực của công đoàn, cùng với sự ủng hộ thường yếu ớt của Đảng Dân chủ đối với luật ủng hộ công đoàn, đã dẫn đến nhận thức rằng đảng không còn ưu tiên nhu cầu của người Mỹ thuộc tầng lớp lao động nữa.

6. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy (populism) và các cuộc nổi loạn của giai cấp công nhân

– Trong các cuộc bầu cử gần đây, đặc biệt là năm 2016, nhiều cử tri thuộc tầng lớp lao động đã chuyển sang các nhân vật theo chủ nghĩa dân túy như Donald Trump, người đã hứa sẽ khôi phục việc làm, đàm phán lại các thỏa thuận thương mại và thách thức cơ quan chính trị. Thực tế là nhiều cử tri trong số này đã rời khỏi Đảng Dân chủ và chấp nhận lời lẽ dân túy được coi là dấu hiệu cho thấy đảng này đã không đáp ứng được nhu cầu kinh tế của họ.

– Lời kêu gọi của Trump đối với các cử tri thuộc tầng lớp lao động, mặc dù ông ta giàu có và có địa vị tinh hoa, thường được coi là phản ứng trước những gì họ cho là Đảng Dân chủ bỏ bê lợi ích của họ.

Kết luận

Mặc dù Đảng Dân chủ trong lịch sử được coi là đảng của giai cấp công nhân, nhưng có một phe phái đáng kể trong đảng—và trong số những người chỉ trích đảng—cho rằng đảng đã tránh xa các chính sách có lợi trực tiếp cho nhóm này. Việc áp dụng các chính sách kinh tế tân tự do, chuyển hướng sang các vấn đề văn hóa và bản sắc, liên quan đến lợi ích của doanh nghiệp và không giải quyết được bất bình đẳng kinh tế thường được chỉ ra là bằng chứng cho thấy Đảng Dân chủ không còn đại diện cho chương trình nghị sự của giai cấp công nhân theo cách có ý nghĩa nữa.

Sự thay đổi này đã dẫn đến sự thất vọng và xa lánh, góp phần vào sự trỗi dậy của các phong trào dân túy và cánh hữu trong số các cử tri thuộc tầng lớp lao động, những người cảm thấy rằng cả hai đảng chính trị lớn đều đã bỏ rơi họ.

=========================

Đây là Lập luận thứ hai

Trong những năm gần đây, nhiều nhà phê bình cho rằng Đảng Dân chủ đã chuyển trọng tâm khỏi tầng lớp lao động truyền thống để ủng hộ những cử tri thành thị giàu có và có học thức hơn, cũng như các nhà tài trợ doanh nghiệp. Nhận thức này được xây dựng dựa trên một số quan sát chính:

1. Toàn cầu hóa (globalization) và Chính sách trao đổi thương mại (Trade Policies)

• Nhiều đảng viên Dân chủ ủng hộ các hiệp định thương mại như NAFTA và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), mà một số nhà kinh tế và công nhân cho rằng đã dẫn đến tình trạng mất việc làm đáng kể trong ngành sản xuất và các ngành công nghiệp lao động chân tay khác. Những thỏa thuận này thường có lợi cho các tập đoàn bằng cách mở rộng thị trường của họ nhưng có thể gây tổn hại đến các ngành công nghiệp địa phương và dẫn đến việc gửi việc ra ngoài (outsourcing). Sự ủng hộ này đối với thương mại tự do đã góp phần tạo nên nhận thức rằng đảng này ưu tiên lợi ích của các tập đoàn toàn cầu hơn là các mối quan tâm về lao động trong nước.

2. Chính sách kinh tế và bất bình đẳng thu nhập

• Mặc dù đảng Dân chủ theo truyền thống ủng hộ các chương trình như An sinh xã hội, Medicare và trợ cấp thất nghiệp, một số người cảm thấy đảng này đã trở nên kém hiệu quả hơn trong việc giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của bất bình đẳng kinh tế. Mối quan hệ của đảng với Wall Street và các nhà tài trợ giàu có được coi là làm ảnh hưởng đến lập trường của đảng về các vấn đề như tăng lương tối thiểu, hỗ trợ các công đoàn lao động và tạo ra các chính sách đánh thuế công bằng. Những người chỉ trích cho rằng trong khi đảng kêu gọi đánh thuế người giàu, thì ban lãnh đạo của đảng đã không làm gì nhiều để cải tổ hệ thống kinh tế vốn vẫn tiếp tục mang lại lợi ích không cân xứng cho người giàu.

3. Sự suy giảm trong sự ủng hộ của công đoàn

• Mặc dù Đảng Dân chủ từng là đồng minh mạnh mẽ của các công đoàn lao động, nhưng liên minh này đã suy yếu theo thời gian. Mặc dù đảng Dân chủ vẫn công khai ủng hộ các công đoàn, nhưng trọng tâm của đảng thường chuyển sang các vấn đề xã hội rộng lớn hơn. Sự nhấn mạnh này đôi khi đã gạt sang một bên các vấn đề lao động truyền thống, như quyền thương lượng tập thể và bảo vệ người lao động, và khiến những người lao động trong công đoàn cảm thấy bị bỏ rơi. Khi số lượng thành viên công đoàn giảm, thì sự nhấn mạnh của đảng Dân chủ vào các chính sách ủng hộ người lao động, vốn đã giúp xây dựng tầng lớp trung lưu của Mỹ trong lịch sử, cũng giảm theo.

4. Sự nhấn mạnh vào các vấn đề văn hóa và xã hội

• Sự tập trung mạnh mẽ của đảng vào các vấn đề xã hội và văn hóa—như biến đổi khí hậu, công lý chủng tộc và bình đẳng giới—mặc dù quan trọng đối với nhiều người, nhưng đôi khi lại làm lu mờ những lo ngại về kinh tế của những cử tri thuộc tầng lớp lao động. Những người chỉ trích cho rằng trọng tâm này có nguy cơ khiến những cử tri có mối quan tâm chính là việc làm, tiền lương và an ninh kinh tế xa lánh, cảm thấy rằng đảng Dân chủ ưu tiên các vấn đề không phù hợp với cuộc đấu tranh hàng ngày của họ.

5. Sự thay đổi trong Quỹ vận động tranh cử và các ưu tiên

• Với sự phụ thuộc ngày càng tăng vào các khoản đóng góp từ các tập đoàn lớn, các công ty công nghệ và các chuyên gia có thu nhập cao, các ưu tiên của đảng Dân chủ đôi khi lại thiên về lợi ích của các nhóm này. Các chính trị gia được các tập đoàn hậu thuẫn có thể do dự hơn trong việc theo đuổi cải cách kinh tế mạnh mẽ, như phá vỡ các thế lực độc quyền hoặc thực thi các quy định chặt chẽ hơn đối với các ngành có thể gây tổn hại đến lợi ích của tầng lớp lao động, chẳng hạn như các chính sách kinh tế chia sẻ đe dọa đến các biện pháp bảo vệ lao động truyền thống.

6. Sự chia rẽ giữa thành thị và nông thôn

• Cơ sở chính trị của Đảng Dân chủ ngày càng trở nên thành thị và ngoại ô, thường khiến cử tri nông thôn cảm thấy bị bỏ qua. Các chính sách và vấn đề phù hợp với cử tri thành thị đôi khi có vẻ không phù hợp với thực tế hàng ngày của người Mỹ ở nông thôn, những người có thể phụ thuộc nhiều hơn vào sản xuất, nông nghiệp và các ngành công nghiệp lao động chân tay khác.

7. Tập trung vào giáo dục và chứng chỉ

• Nhiều đảng viên Dân chủ ủng hộ các chính sách nhấn mạnh vào giáo dục đại học và kỹ năng kỹ thuật, thường là để ứng phó với những thay đổi về kinh tế. Tuy nhiên, một số người cho rằng các chính sách này bỏ qua nhu cầu cấp thiết của những người không có bằng đại học và làm việc trong các ngành công nghiệp truyền thống. Người Mỹ thuộc tầng lớp lao động có thể cảm thấy rằng đảng Dân chủ coi trọng lợi ích của những người có trình độ đại học hơn, do đó loại trừ những người trong thị trường lao động có kỹ năng thấp hơn.

Kết luận

Mặc dù đảng Dân chủ theo truyền thống được coi là đảng của tầng lớp lao động, nhưng nhiều người tin rằng các chính sách và ưu tiên của họ đã thay đổi theo cách đôi khi khiến họ xa rời những gốc rễ này. Những người chỉ trích cho rằng cho đến khi đảng giải quyết tích cực hơn các mối quan tâm kinh tế cốt lõi của cử tri thuộc tầng lớp lao động, chẳng hạn như tiền lương công bằng, hỗ trợ của công đoàn và an ninh kinh tế, thì sự mất kết nối được nhận thức này có thể tiếp tục gia tăng. Sự thay đổi này đã góp phần tạo cơ hội cho Đảng Cộng hòa tiếp cận cử tri thuộc tầng lớp lao động, đặc biệt là những người ở các vùng nông thôn và thị trấn nhỏ.

5 COMMENTS

  1. you are in reality a good webmaster The website loading velocity is amazing It sort of feels that youre doing any distinctive trick Also The contents are masterwork you have done a fantastic job in this topic

  2. Ive read several just right stuff here Certainly price bookmarking for revisiting I wonder how a lot effort you place to create this kind of great informative website

  3. Your blog is a treasure trove of valuable insights and thought-provoking commentary. Your dedication to your craft is evident in every word you write. Keep up the fantastic work!

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here