Nếu Chúa Giê-su hiện về vào Giáng Sinh 2025, điều gì sẽ khiến Ngài ngạc nhiên?

0
3
Đây là cuộc trò chuyện mới nhất trong chương trình phỏng vấn của Nicholas Kristof về Kitô giáo. Ông đã từng phỏng vấn Mục sư Timothy Keller, cựu Tổng thống Jimmy Carter, nhà văn Beth Moore, Giáo sư Elaine Pagels và một số nhân vật khác. Lần này, ông nói chuyện với Bart Ehrman, một học giả Tân Ước nổi tiếng tại Đại học North Carolina và là tác giả hoặc nhà biên tập của hơn 30 quyển sách.
Kristof: Ông sắp cho ra mắt cuốn sách mới, “Love Thy Stranger”, giải thích rằng Chúa Giê-su đã truyền dạy một thông điệp mang tính cách mạng, làm biến đổi tư duy đạo đức của phương Tây. Thông điệp đó là gì?
Ehrman: Cốt lõi trong thông điệp của Chúa Giê-su là lòng yêu thương “tha nhân”, không chỉ có nghĩa là chăm lo cho gia đình và bè bạn, mà còn là quan tâm đến cả những tha nhân, bất kỳ ai đang thiếu thốn, dù ta có quen biết họ hay họ có giống ta hay không. Trong thời đại Hy Lạp và La Mã, nơi Chúa Giê-su xuất thân, lòng vị tha này không hề được khuyến khích, thậm chí nó còn không được chấp nhận. Thế nhưng chính quan niệm ấy đã hoàn toàn làm thay đổi cách suy nghĩ và là ưu tiên đạo đức của phương Tây cho đến tận ngày nay.
Kristof: Tôi ngưỡng mộ thông điệp của Chúa Giê-su về việc giúp đỡ tha nhân, nhưng liệu nó có thật sự biến đổi lương tâm đạo đức của phương Tây hay không? Người theo đạo Tin Lành da trắng phần lớn đã bỏ phiếu cho Tổng thống Trump, trong khi ông ấy không hề giúp đỡ tha nhân mà lại chia cắt gia đình và trục xuất họ.
Ehrman: Đúng vậy. Một số nhà lãnh đạo Kitô giáo và cộng đồng Kitô giáo công khai khuyến khích những quan điểm đi ngược hẳn với giáo huấn của Chúa Giê-su. Dẫu vậy, các lời dạy của Ngài vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến đa số người phương Tây, dù họ có là Kitô hữu hay không.
Điển hình như khi sau những cơn bão lớn, nhiều người trong chúng ta gửi tiền cứu trợ. Hoặc chúng ta tình nguyện phục vụ tại các nhà bếp từ thiện để giúp người không quen biết. Những việc làm ấy bắt nguồn từ giáo huấn của Chúa Giê-su và nó đã trở thành chuẩn mực đạo đức kể từ khi Kitô giáo trở thành một tôn giáo lớn của phương Tây.
Các bệnh viện công, các chương trình xã hội quy mô nhằm phục vụ người nghèo, cô nhi viện, nhà tế bần, cứu trợ thiên tai, những thứ ấy thực sự chưa có trước khi Kitô giáo nắm vai trò lớn trong các đế chế ấy, và rõ ràng chúng đã tạo ra sự khác biệt to lớn trong đời sống của hàng triệu con người.
Kristof: Nhưng Kitô giáo cũng từng được dùng để biện minh cho chế độ nô lệ, các cuộc tàn sát tập thể và nhiều điều khác.
Ehrman: Tôi không hề nói rằng thế giới trở nên đạo đức hơn chỉ vì Kitô giáo. Vị hoàng đế Kitô giáo đầu tiên là Constantine, một trong những hoàng đế đẫm máu nhất trong lịch sử Đế quốc La Mã. Điều tôi muốn nói là khuynh hướng giúp đỡ hoàn toàn cho những tha nhân đang lâm cảnh khốn cùng đã đi vào thế giới phương Tây qua giáo huấn của Chúa Giê-su, và từ đó dẫn đến một biến đổi văn hóa sâu rộng.
Ngay trong Giáo hội Kitô giáo thời kỳ đầu, ta đã nghe nói đến những hành động vị tha phi thường dành cho tha nhân. Vào cuối thế kỷ thứ nhất, một số tín hữu Kitô giáo tại Rôma đã tự bán mình làm nô lệ để chuộc tự do cho người khác. Quan niệm rằng ta nên hy sinh ở một mức độ nào đó vì những người đang thiếu thốn đã ăn sâu vào tâm thức phương Tây.
Kristof: Nói đến nô lệ, tại sao Chúa Giê-su không lên án chế độ nô lệ? Dường như Ngài không đưa ra một thông điệp rộng lớn hơn về công bằng xã hội, phải không?
Ehrman: Đúng vậy, Ngài không lên án, cũng như hầu như không có ai trong thời cổ đại làm điều đó. Đối với Chúa Giê-su, có thể nói rằng Ngài và các môn đồ quan tâm đến nỗi khổ đau của từng cá nhân hơn là sự bất công mang tính của một thể chế.
Chúng ta ngày nay có tầm nhìn rộng hơn. Chúng ta kêu gọi hành xử có đạo đức vì muốn xã hội tốt đẹp lâu dài hơn. Nhưng với Chúa Giê-su, sẽ không có vấn đề “về lâu dài”. Ngài rao giảng rằng ngày tận thế sẽ đến ngay trong thế hệ của mình. Điều đó tạo ra một sự khẩn thiết trong việc cứu giúp những người đang đau khổ, đồng thời dẫn đến một thái độ khá thờ ơ đối với vấn đề cải cách thể chế.
Kristof: Tin Mừng theo thánh Matthew cho thấy rằng những ai lên thiên đàng là những người cho kẻ đói ăn và giúp đỡ người bệnh. Trong khi đó, nhiều dân biểu Quốc hội hiện nay lớn tiếng giảng Kinh Thánh lại cắt giảm trợ cấp thực phẩm và đẩy hàng triệu người ra khỏi chương trình Medicaid. Tôi thật không hiểu.
Ehrman: Tôi cũng vậy. Rất nhiều người tự nhận là theo Chúa Giê-su dường như không hề biết Ngài thực sự đã dạy gì. Khi tôi còn là một người theo đạo Tin Lành, tôi tin rằng điều quan trọng là phải biết Kinh Thánh nói gì và hành động theo đó. Nhưng ngày nay, phong trào Tin Lành chủ yếu tập trung vào những chương trình nghị sự xã hội không hề được Kinh Thánh cổ vũ, trong khi lại phớt lờ các mệnh lệnh đạo đức mà Kinh Thánh đã dạy đi dạy lại.
Dù quan điểm của mỗi người về phá thai ngày nay ra sao, thì nói rằng Kinh Thánh phản đối phá thai là sai. Kinh Thánh không hề nhắc đến việc cố ý phá bỏ bào thai, và những đoạn duy nhất liên quan đến câu hỏi liệu thai nhi có được xem là một con người sống với đầy đủ quyền con người hay không đều cho thấy câu trả lời là không (chẳng hạn như trong Exodus 21:22–25).
Điều mà Kinh Thánh nhấn mạnh, trang này qua trang khác, là bổn phận chăm sóc người nghèo, kẻ bị gạt ra bên lề, “tha nhân”.
Cũng tương tự với quyền của những người đồng tính. Người ta thường xuyên trích sách Leviticus để nói rằng đàn ông ăn nằm với đàn ông là tội lỗi (Leviticus 18:22). Nhưng rồi họ lại bỏ qua chương kế tiếp, nơi Kinh Thánh minh thị rằng người ngoại kiều trong đất nước của anh em phải được đối xử y như công dân (Leviticus 19:33–34).
Tại sao người ta chú ý đến câu này mà bỏ qua câu kia? Đơn giản vì họ chỉ chọn những gì có lợi cho quan điểm riêng của mình.
Kristof: Chúa Giê-su hẳn đã giữ luật ăn kiêng của người Do Thái, coi ngày thứ Bảy là ngày Sabbath, và tự xem mình là người Do Thái. Vậy bản thân Chúa Giê-su có phải là một Kitô hữu không?
Erhman: Điều đó còn tùy vào ta hiểu như thế nào. Chúa Giê-su hoàn toàn là người Do Thái, và Ngài không hề hình dung ra một tôn giáo nào không mang bản sắc Do Thái. Các môn đồ của Ngài cũng đều là người Do Thái. Nhưng bắt đầu từ thánh Phaolô, Kitô giáo dần chuyển mình để trở thành một tôn giáo của người dân không phải Do Thái.
Kristof: Nếu Chúa Giê-su có thể vượt thời gian và trở lại trần thế vào lễ Giáng Sinh năm nay, điều gì sẽ khiến Ngài ngạc nhiên nhất?
Erhman: Tôi không nghĩ Chúa Giê-su sẽ nhận ra Kitô giáo ngày nay. Quan niệm cho rằng Ngài là một đấng thần linh có trước khi giáng sinh dưới hình hài một hài nhi không hề có trong các giáo huấn của chính Ngài trong những Tin Mừng của Matthew, Mark and Luke. Tôi nghĩ Ngài sẽ vô cùng sửng sốt khi nghe điều đó.
Kristof: Vậy trong giờ phút gia đình quây quần ngày 25 tháng 12, giữa một giai đoạn đầy thử thách, chúng ta nên tự hỏi và suy ngẫm điều gì?
Erhman: Các Tin Mừng là những câu chuyện được viết ra để chuyển tải những thông điệp quan trọng. Tôi thấy thông điệp của Giáng Sinh rất cảm động. Đó là câu chuyện về việc Thiên Chúa mang ơn cứu độ đến cho một thế giới khốn cùng qua một đứa trẻ nghèo khó, đứa trẻ ấy rồi sẽ lớn lên và hiến dâng mạng sống mình cho người khác.
Tôi không nghĩ đây là một câu chuyện có tính lịch sử. Nhưng tôi tin rằng các câu chuyện vẫn có thể chân thật, đầy ý nghĩa và có sức mạnh, ngay cả khi chúng không thực sự xảy ra. Nhiều người trong chúng ta đọc những tiểu thuyết lớn, và chúng giúp định hướng cách ta muốn sống. Câu chuyện Giáng Sinh cũng như vậy, nó có sức mạnh định hình cách ta suy nghĩ và cư xử với tha nhân.
Nguồn: Kristof, N. (2025, December 22). What would surprise Jesus about Christmas 2025? The New York Times.