(La Prière de la Forêt)
“Hồn Tổ Quốc ngự giữa rừng sâu thẳm
Rừng điêu tàn là Tổ Quốc suy vong”
Khoảng năm 1940, tại Đà Lạt xuất hiện bài thơ này và được ghi trên bảng gỗ, được trưng bày ở hai nơi, một ở cổng chính Nha Thủy Lâm, miền Nam, đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu), một ở Sở Thủy Lâm, Đà Lạt, trên đường vào Trung Tâm Thực Nghiệm Lâm Học Manline, cạnh phần mộ của ông Nguyễn Hữu Hào, tức thân phụ của Hoàng Hậu Nam Phương, Ba vợ của Vua Bảo Đại. Hiện nay, cụ Lương Hòe ở Đà Lạt (98 tuổi) vẫn còn giữ bức ảnh bảng gỗ này. Nội dung bài thơ cho thấy Đà Lạt từ thập niên 1940 đã có ý thức bảo vệ rừng, dù lúc đó rừng đang đậm nét hoang dã, mênh mông đồi cỏ, rừng thông….
Dưới đây là bài thơ của Hannes Tuch, kỹ sư lâm nghiệp, sinh ngày 2.11.1906, sống ở Kreis Warburg, Westphalie, Tây Đức. Bài thơ nhanh chóng được dịch qua tiếng Pháp, tiếng Anh và được nhiều trường Nông nghiệp trên thế giới xem là tôn chỉ.
Tại Việt Nam có nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của KS Bùi Bá được nhiều người trong giới Nông học thích nhất. Sau đây là bản tiếng Pháp khắc tại Đà Lạt và bản dịch của Bùi Bá:
“La Prière de la Forêt
Homme je suis la chaleur de ton foyer
Par les froides nuits d’hiver.
L’ombrage ami lorsque que brûle le soleil.
Je suis la charpente de ta maison,
La planche de ta table.
Je suis le lit dans lequel tu dors,
Et le bois dont tu fais tes navires.
Je suis le manche de ta houe
Et la porte de ton enclos.
Je suis le bois de ton berceau et ton cercueil,
Je suis le pain de la Bonté
La fleur de la Beauté.
Ecoute ma Prière !
Ne me détruis pas.”
“Người có biết những đêm đông giá lạnh, ta bốc hơi ấm lửa hun nồng
Người có biết, những ngày nắng gắt, ta che tán mát rượi ánh chiều nung,
Người có biết, dưới sườn nhà đồ sộ, ta che người dầu dãi nắng mưa chan;
Người có biết, trên nếp giường êm ấm, người nương ta an giấc điệp mơ màng
Người có biết, kìa con thuyền vượt sóng, ta đưa người du ngoạn khắp năm châu,
Người có biết, này chuôi cày xới đất, ta vun cây cho nẩy nở hoa màu
Chính ta đã rước người vào cuộc sống, trong chiếc nôi âu yếm mẹ đưa ru
Rồi ta sẽ tiễn người khi vĩnh biệt, làm áo quan ấm áp giấc nghìn thu
Người hỡi người, nghe lời ta cầu nguyện,
Chớ hại ta mà vũ trụ u sầu.
Để ta sống, ta điều hoà mưa nắng, hoa xinh tươi cây cối nẩy thêm tươi,
Để ta sống, ta ngăn luờng vũ bão; chặn cát bay làn gió bốc tung trời
Để ta sống, ta đùn mây quyện gió, gieo mưa tuôn đầm ấm cõi trần gian
Để ta sống, ta cản dòng nước lũ, cứu nhân dân cơn thuỷ nộ lầm than
Ta là Mẹ của muôn nền hưng thịnh, làng hưng phong xây dựng nước hưng phong
Ta tô điểm non sông nên gấm vóc, cây xanh cao lá biếc lớp trùng trùng.”
***
(P/S: 1982, KS Bùi Bá ghi thêm 2 câu thơ dịch từ 2 câu thơ đầu của bài thơ nỗi tiếng “La Forêt” của Claude Adhémar André Theuriet (8 October 1833 – 23 April 1907:
“Người hỡi!
Hồn Tổ Quốc ngự giữa rừng sâu thẳm
Rừng điêu tàn là Tổ Quốc suy vong”
Sưu tầm
MY LAN PHẠM