NTD
Vỡ nợ trái phiếu doanh nghiệp BĐS không còn là câu chuyện ở bên kia biên giới phía bắc, nó đã được cảnh báo là sẽ xuất hiện ở Việt Nam trong 2 năm trở lại đây, và giờ đã thực sự xuất hiện…
Bắt đầu vỡ nợ
Sau sự cố liên quan đến lô trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) của Tập đoàn bất động sản (BĐS) Tân Hoàng Minh, mới đây, VKC Holdings (mã chứng khoán VKC – HNX) cho biết công ty đã mất khả năng thanh toán đối với các chủ nợ. Lô trái phiếu không có khả năng thanh toán đến hạn 9/9/2022 trị giá 200 tỷ đồng (lô TPDN này phát hành ngày 9/9/2021). Nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ nhân của trái phiếu và các cổ đông, VKC Holdings đang làm việc tích cực để khắc phục những hậu quả trên.
Gần đây nhất, Tập đoàn BĐS Vạn Thịnh Phát bị điều tra với hàng loạt nhân sự cấp cao bị bắt với tội danh tương tự của Tân Hoàng Minh: Lừa đảo trên thị trường TPDN. Chưa tính tới cả hệ sinh thái doanh nghiệp của Vạn Thịnh Phát, chỉ riêng một doanh nghiệp trong hệ sinh thái này vừa bị khởi tố (tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản) là CTCP Tập đoàn Đầu tư An Đông, bị cáo buộc gian dối trong phát hành và mua bán trái phiếu, chiếm đoạt hàng nghìn tỷ đồng. Công ty này hoạt động chính trong lĩnh vực kinh doanh BĐS và quyền sử dụng đất. Tập đoàn Đầu tư An Đông hiện có 3 lô trái phiếu đã phát hành với tổng giá trị lên tới gần 25.000 tỷ đồng. Vốn điều lệ của công ty là 9.000 tỷ đồng.
Hiển nhiên, các TPDN phát hành bởi An Đông (25 nghìn tỷ đồng) hoàn toàn có khả năng trở thành các trái phiếu bị vỡ nợ, doanh nghiệp không thể trả tiền cho người mua. Không giống như các khoản tiền gửi ở ngân hàng, người gửi tiền còn có thể nhận lại toàn bộ hoặc một phần tổn thất từ bảo hiểm tiền gửi, các khoản đầu tư TPDN (không có tài sản đảm bảo, không có cam kết hay bảo lãnh) đều có thể bị mất trắng. Đây là điều đã và đang xảy ra với các lô trái phiếu phát hành bởi các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn BĐS Tân Hoàng Minh sau khi CEO và các lãnh đạo cấp cao của tập đoàn này bị truy tố.
Trái phiếu doanh nghiệp BĐS đáo hạn từ nay đến 2024: 12% GDP
Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu kinh tế, thuộc Ngân hàng MSB, tổng khối lượng TPDN đáo hạn trong năm 2022 là 231.000 tỷ đồng. Theo một thống kê khác của FiinGroup, khoảng 60% giá trị trái phiếu đang lưu hành sẽ đáo hạn trong năm 2023-2024. Như vậy, nhu cầu tái tài trợ các khoản TPDN đáo hạn từ nay đến năm 2024 lên tới gần 1 triệu tỷ đồng, tương đương với 11,79% GDP cả nước năm 2021.
Trong 3 năm trở lại gần đây, dòng vốn đổ vào BĐS còn được hỗ trợ lớn huy động trên thị trường trái phiếu. Tuy nhiên, thị trường TPDN, đặc biệt là ngành bất động sản (BĐS) thiếu minh bạch cũng đồng thời ẩn chứa nhiều rủi ro.
Đáng lưu ý là có xung đột lợi ích cực lớn giữa các ngân hàng và công ty chứng khoán, những tổ chức vừa tư vấn phát hành TPDN, vừa định giá TPDN, vừa bảo lãnh phát hành và kinh doanh trực tiếp TPDN này trên thị trường nợ. Trường hợp này ở Việt Nam hệt như xung đột lợi ích của hãng xếp hạng tín nhiệm, vừa đồng thời kiểm toán, vừa đồng thời tư vấn kinh doanh cho Tập đoàn kinh tế Enron ở Mỹ năm 2001; gây nên khủng hoảng tồi tệ trên thị trường chứng khoán Mỹ.
Vụ bê bối Enron, được công bố vào tháng 10 năm 2001, cuối cùng đã dẫn đến sự phá sản của Enron Corporation, một công ty năng lượng của Mỹ có trụ sở tại Houston, Texas, và sự giải thể của Arthur Andersen, một trong năm đối tác kiểm toán và kế toán lớn nhất trên thế giới. Lý do là Anderson vừa là công ty tư vấn kinh doanh cho Enron, vừa nhận tiền để xếp hạng tín nhiệm cho Enron. Xung đột lợi ích đã khiến Anderson ‘nói dối’ cho Enron để lừa đảo nhà đầu tư, kiếm tiền bất chấp đạo đức kinh doanh.
80% TPDN BĐS có chất lượng xếp hạng ‘trái phiếu rác’
Năm 2021, BĐS vẫn là ngành phát hành nhiều TPDN nhất, chiếm tỷ trọng gần 40% lượng TPDN phát hành năm qua; tương đương 285,6 nghìn tỷ đồng (tăng 64% so với năm 2020). Đây cũng là ngành nghề có lãi suất sơ cấp bình quân cao nhất với mức lãi suất gần 9,8% (theo báo cáo của công ty chứng khoán Techcombank).
Trong đó có khoảng 29% giá trị trái phiếu phát hành không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm bằng chính cổ phiếu của công ty mẹ. Giá cả của các loại hàng hoá này cũng đang lao dốc không phanh theo tốc độ mất giá của Vn-index.
Lãi suất phát hành của các TPDN dao động trong khoảng 8%-13%/năm, bên cạnh đó có một vài doanh nghiệp có mức lãi suất phát hành chỉ ở mức khoảng 5%-6%/năm. Kỳ hạn 1-3 năm chiếm phần lớn giá trị phát hành trong năm với 142.389 tỷ đồng, chiếm 67,33%.
Theo Báo cáo của Fiin Ratings, hơn 80% giá trị TPDN của ngành BĐS phát hành thuộc về các doanh nghiệp chưa niêm yết. Các doanh nghiệp này có sức khỏe tài chính ở mức yếu rất đáng báo động. Điều này thể hiện ở mức độ đòn bẩy tài chính (Nợ vay ròng/Vốn chủ sở hữu) hiện ở mức lên tới 8,1 lần trong khi các doanh nghiệp niêm yết chỉ ở mức 2,5 lần. Đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp BĐS phát hành TPDN chưa niêm yết ước tính có thể còn cao hơn nữa, rủi ro hơn nữa vào cuối năm 2022.
Nói cách khác, 80% TPDN BĐS Việt Nam hiện ở mức ‘trái phiếu rác’. Do thị trường nợ Việt Nam chưa có xếp hạng tín nhiệm độc lập, hãng phát hành nợ là trái phiếu rác đang có một thiên đường phát hành nợ ở Việt Nam; đặc biệt khi có sự tiếp tay nhiệt tình từ các ngân hàng thương mại (NHTM) và công ty chứng khoán.
74% – 80% TPDN được nắm giữ bởi ngân hàng và các công ty chứng khoán
Trái phiếu của các doanh nghiệp chưa niêm yết này hầu hết là phát hành riêng lẻ cho các bên mua chính là NHTM và công ty chứng khoán (CTCK); phần lớn có tài sản đảm bảo hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Phát hành riêng lẻ được ưa chuộng vì yêu cầu minh bạch thông tin, các điều kiện để phát hành thấp hơn nhiều so với phát hành TPDN ra công chúng.
Tuy nhiên, tài sản thế chấp hay tài sản đảm bảo (cho các lô TPDN phát hành này) chỉ có tác dụng tạo áp lực cho doanh nghiệp trong việc đáp ứng nghĩa vụ nợ, trong khi giá trị thu hồi rất thấp do tính phức tạp của các thủ tục xử lý tài sản thế chấp và thời gian kéo dài. Ngoài ra, việc thiếu vắng các thông tin về xếp hạng tín nhiệm trên thị trường phát hành nợ khiến TPDN BĐS trở thành rủi ro lớn nhất trên thị trường vốn hiện nay.
Theo số liệu cung cấp bởi Fiin Ratings về tình trạng phát hành TPDN BĐS 6 tháng đầu năm 2021, tính chung lại, 74% giá trị TPDN phát hành bởi các công ty BĐS được nắm giữ trong hệ thống các NHTM và CTCK có liên kết mạnh mẽ với NHTM.
Theo Luật Tổ chức tín dụng, việc các NHTM mua lại TPDN của công ty BĐS, hoặc cam kết bảo lãnh thanh toán cho BĐS sẽ được được xem như một khoản tín dụng BĐS. Điều này có nghĩa là các định chế này cũng phải hạch toán, trích lập dự phòng và theo dõi khoản TPDN ôm giữ như một khoản tín dụng. Với quy định này, có thể các nhà quản lý đã kịp thở phào rằng rủi ro từ TPDN BĐS đã được lấp đầy bởi quy định dự phòng rủi ro bắt buộc.
Nhưng thực tế không phải vậy.
Các NHTM thường chỉ nắm giữ TPDN khi mới phát hành, như một cách đảm bảo uy tín cho TPDN, loại tài sản nợ mà họ vừa tư vấn phát hành, vừa định giá, vừa đầu tư. Sau đó họ sẽ vội vã bán nó ra ngoài công chúng (nếu là TPDN thông thường). Nhưng khả năng hấp thụ nợ trên thị trường nợ của Việt Nam chưa hề lớn. Theo Fiin Ratings, 45,8% TPDN BĐS đang được nắm giữ bởi các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán Việt Nam hầu hết là các công ty con của các NHTM lớn. Nhưng bằng cách bán TPDN cho một công ty con trong hệ thống (hoặc bán chéo cho các CTCK của NHTM khác) nắm giữ, khoản TPDN BĐS này NHTM không phải hạch toán như một khoản tín dụng cho vay BĐS. Điều này giúp NHTM giảm bớt khối tài sản bị áp trọng số rủi ro cao, vừa đảm bảo báo cáo tài chính an toàn theo yêu cầu của Ngân hàng nhà nước, vừa có thể giúp khách hàng là doanh nghiệp BĐS đảo nợ, giảm trích lập dự phòng rủi ro.
Do chuẩn mực phát hành TPDN thấp hơn nhiều so với quy trình và yêu cầu đòi hỏi thẩm định với một khoản vay tín dụng, nên TPDN BĐS do NHTM và các công ty liên kết của họ nắm giữ thực chất là khoản cho vay dưới chuẩn, là trái phiếu rác; nhưng loại tín dụng hết sức rủi ro này lại không hề được trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ.
Các ngân hàng và công ty chứng khoán Việt Nam đang ‘làm ảo thuật’ với nhà đầu tư như cách Anderson làm với Enron
Tồn tại xung đột lợi ích rất lớn trên thị trường tài chính về phát hành TPDN; xung đột này còn lớn hơn cả xung đột lợi ích của Anderson trong vụ tư vấn cho Enron khiến thị trướng chứng khoán Mỹ sụp đổ năm 2001.
Các NHTM và CTCK là những định chế vừa tư vấn phát hành trái phiếu cho doanh nghiệp BĐS, vừa định giá TPDN, vừa bảo lãnh cho doanh nghiệp phát hành, vừa là người mua, nắm giữ TPDN BĐS cũng đồng thời là người bán TPDN cho các nhà đầu tư tư nhân. Điều này tạo ra xung đột lợi ích rất lớn trên thị trường tài chính. Ví dụ, nghi vấn các tổ chức tín dụng, các CTCK cấu kết với doanh nghiệp BĐS yếu kém phát hành TPDN để đáo nợ.
Thực tế, khủng hoảng TTCK ở Mỹ năm 2001 sau sự sụp đổ của Tập đoàn Enron do Tập đoàn kiểm toán Anderson vừa đóng vai trò tư vấn, vừa kiểm toán cho Enron. Trong trường hợp này, các NHTM trong nước hiện còn đóng nhiều vai trò hơn Anderson cách đây 2 thập kỷ; xung đột lợi ích còn lớn hơn nhiều.
Bản thân các NHTM và CTCK ở Việt Nam sau khi tư vấn phát hành không có thực sự bảo lãnh cho khoản TPDN đó. Cam kết của họ chỉ dừng lại ở mức “bảo chứng” theo kiểu: “dòng tiền dự án của công ty A (công ty phát hành trái phiếu) cam kết đi qua tài khoản tại ngân hàng của chúng tôi, chúng tôi đảm bảo sẽ sử dụng nguồn tiền qua tài khoản của công ty A này thanh toán các nghĩa vụ trái phiếu cho các trái chủ của công ty A như đã cam kết”.
Rõ ràng, đây hoàn toàn không phải là cam kết bảo lãnh cho TPDN đó. Cách làm này vừa giúp các NHTM không phải trích lập dự phòng rủi ro cho bảo lãnh TPDN như một khoản tín dụng (theo luật), vừa không phải chịu trách nhiệm gì với các nhà đầu tư TPDN mà NHTM đó tư vấn bán. Đáng tiếc, một lượng lớn nhà đầu tư trong nước hiện còn nhầm lẫn khái niệm ‘bảo chứng’ với ‘bảo lãnh’. Bản thân nhân viên ngân hàng khi bán TPDN BĐS cho nhà đầu tư luôn dùng từ ‘bảo lãnh’, họ đã đánh tráo khái niệm tài chính căn bản chỉ để bán được hàng.
Với rủi ro ở mức hệ thống lớn như thế này, việc dự báo tình trạng vỡ nợ TPDN BĐS không còn là một dự báo xa hay mơ hồ. Lúc đó, nợ xấu, đổ vỡ kèm lãi suất tăng như giai đoạn 2011 -2012 có thể lặp lại một lần nữa.
Trà Nguyễn