Home Blog Page 1364

THẰNG KHÙNG (Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)

0

 

( THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài. Phùng Quán viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân – không phải là nhà văn có cùng tên – khi cùng ở trong tù với Cha Vinh)

“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.

– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

– Tôi thích nhất là Candide.

– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

– Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:

– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:

– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

________

Ghi Chú:

(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,

Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).

Tấm gương can trường.

Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*

Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.

Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”

Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize – Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.

Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.

Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.

Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8, Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.

Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.

Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.

Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:

“Tự do thế này à!”

Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.

Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:

“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”

Ngài đáp:

“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”

Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”

Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.

Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”

Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

TGP Hà Nội

BBT (Theo HĐGMVN)

Trần Văn Giang sưu tầm. ( copy FB Lư Châu )

[Những điều cơ bản ko phải ai cũng biết] TỰ DO BÁO CHÍ

FB le vi

Nghe mình bảo VN ko hề có 1 chút tự do báo chí nào, thằng bạn giãy nãy gào lên “mày nói VN ko có tự do báo chí mà tao thấy tụi mày nói xấu nhà nước trên fb, blog hà rằm; kết quả bỏ phiếu Hiến pháp thế nào dân ai cũng đc biết, lúc bỏ phiếu cập nhật từng phút cho dân xem, bao nhiêu vụ tham nhũng, xử oan báo cũng đăng ra hết có giấu đâu; ko có tự do báo chí mà có internet cho mày hả, ko thích đọc báo giấy thì có báo mạng, mấy trăm tờ báo, mày muốn đọc báo nào cũng đc, ai cấm mày; ko thích dantri, tuoitre thì có zing, kênh 14, ko thích zing thì có 24h, vnexpress… ko có tự do báo chí mà có facebook, có blog cho mày xem hả”

Mình mới vỗ vai thằng bạn nói:
– Tự do báo chí là quyền được tự do viết sách/báo, lập kênh truyền hình, kênh radio riêng để chia sẻ thông tin với cộng đồng… chứ ko phải chỉ là “quyền được đọc báo đã qua kiểm duyệt”

– Ở Mỹ báo chí có bị kiểm duyệt ko?
Trả lời: có tờ bị kiểm duyệt, có tờ ko, và chắc chắn ko có cách nào ngăn đc sự kiểm duyệt nếu kinh phí của tờ báo đó phụ thuộc vào 1 cá nhân hay 1 tổ chức nào đó… chính vì ko thể ngăn sự kiểm duyệt, vậy nên chỉ có cách trao quyền cho dân ai muốn viết báo thì viết, in sách thì in, lập kênh truyền hình thì lập… đó mới là “tự do báo chí”. Việc này bảo đảm ko 1 thế lực nào có thể thao túng, bóp méo thông tin. Nếu thấy tờ báo A đưa tin sai, tờ báo B sẽ đưa tin đúng phản bác lại báo A… nếu cả 2 tờ báo thông đồng với nhau đều đưa tin sai thì sẽ có tờ báo C, D do ng dân nào đó hay do chính bạn lập ra để phản bác những tờ báo đưa tin sai và cung cấp thông tin đúng

– Ở các quốc gia dân chủ có “tự do báo chí” nên báo nào là lá cải, báo nào đưa tin nghiêm túc thì ng đọc biết rất rõ, và họ xem báo lá cải chỉ là phương tiện giải trí, còn muốn theo dõi tin tức thì phải đọc các tờ báo nghiêm túc
*Trong khi đó ở VN, mấy trăm tờ báo cùng đưa 1 nội dung, 1 kiểu tin và cùng lá cải… bởi vì đã có sự kiểm duyệt và thống nhất cách đưa tin cũng như nội dung, cái gì có thể đưa ra, cái gì cần phải giấu, tất cả đã có quy định mà mọi tờ báo trong nước phải tuân theo. Gần đây các bạn thấy những báo mạng như thanhnien, vnexpress có mục “ý kiến bạn đọc”… nhưng khi các bạn comment cho ý kiến, nếu ý kiến của bạn vượt ra khỏi khung kiểm duyệt thì ý kiện bạn ko thể đc đăng lên… những lúc như vậy bạn rất ức chế, và muốn nói cho mọi ng biết ý kiến riêng, suy nghĩ riêng, góc nhìn riêng của bạn… lúc đó bạn mới cảm nhận đc quyền “tự do báo chí” để bạn và ai có nhu cầu chia sẻ thông tin đáng giá như thế nào
+++++++++++++++++++++++++++
Bạn cho rằng bạn ra ngoài nói chuyện với bạn bè, ở nhà nói chuyện với ng thân trong gia đình là “Tự do ngôn luận” ư… ko phải đâu nhé

Quyền tự do ngôn luận thường không phải là một vấn đề có liên quan đến các hoạt động riêng tư, mà liên quan đến các hoạt động truyền thông đại chúng như: công bố một quyển sách, một bài thơ, một bài báo, hay một bức ảnh, phát sóng một chương trình phát thanh hay truyền hình, sáng tác và triển lãm một tác phẩm nghệ thuật, đọc một bài diễn văn trong một cuộc mít-tinh chính trị, hay có thể là đăng tải một lời công kích trên mạng xã hội
Bạn ko đc công bố 1 quyển sách, 1 bài thơ, 1 bài báo, 1 bài nhạc đến với công chúng, những ng có cùng tư tưởng với bạn ko đc lên tivi, lên báo phát biểu quan điểm riêng… có nghĩa là bạn ko có quyền tự do ngôn luận
Những bài nhạc “Việt Nam Tôi Đâu, Anh là ai, ĐMCS ko bao giờ đc chiếu trên tivi cho ng xem, ko đc lên những trang web nhạc như Mp3Zing, Yan… hay những bài viết có nội dung như stt này ko bao giờ đc đăng lên báo” chính là biểu hiện của 1 xã hội ko có tự do ngôn luận
Quyền tự do ngôn luận đặc biệt quan trọng đối với người cầm bút vì bản chất hoạt động của họ là truyền thông các ý niệm trong công chúng. Hơn ba mươi năm qua, tạp chí Index on Censorship không khó khăn lắm trong việc tìm bài cho đủ trang bằng những ví dụ về các cây bút bị tước quyền truyền thông cơ bản này. Các nhà tù trên thế giới là nơi ở của nhiều người cầm bút khi họ đã vượt quá những giới hạn mà nhà cầm quyền cho phép trong việc truyền thông, và nhiều nhà văn vĩ đại nhất trong lịch sử từng bị giam cầm, tra tấn, hay thậm chí bị sát hại vì đã thể hiện công khai tư tưởng của mình.

P/S: Các bạn cũng đừng nhầm lẫn việc các bạn có thể thoải mái đăng status, comment trên facebook, các blog lề trái là nhà nước đã cho phép “tự do báo chí”. Ko hề, chỉ vì facebook, và các blog lề trái hay dùng thuộc quyền quản lý của nc ngoài, họ ko chịu sự ảnh hưởng bởi ban kiểm duyệt của đảng ta, nên bạn có thể thoải mái bày tỏ tư tưởng của mình
FB le vi

Tranh chấp tay ba ở Himalaya

0

Thoạt nhìn, vương quốc Bhutan thanh bình dường như chẳng phải là một quốc gia có cân lượng trên trường quốc tế, với dân số hơn 700.000 người và diện tích 38.394 km2. Tuy vậy, do vị trí chiến lược, đất nước trên dãy Himalaya đang nằm ở vị trí trung tâm trong cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai nước láng giềng Ấn Độ và Trung Quốc.

Tâm điểm của cuộc đối đầu này là tranh chấp lãnh thổ. Giữa Trung Quốc và Bhutan hiện có 3 khu vực tranh chấp: hai thung lũng Jakarlung và Pasamlung ở biên giới phía bắc của Bhutan và cao nguyên Doklam mà Bắc Kinh gọi là Động Lãng ở phía đông. Trong số đó, cao nguyên Doklam hiện do Bhutan kiểm soát là khu vực Trung Quốc thèm muốn nhất, và yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh tại khu vực giao nhau giữa biên giới ba nước khiến Ấn Độ cực kỳ lo ngại. Lý do là từ cao nguyên này có thể kiểm soát thung lũng Chumbi bên phía Tây Tạng và quan trọng hơn là có thể khống chế hành lang Siliguri của Ấn Độ.

Con dao kề vào yết hầu

Hành lang Siliguri là dải đất hẹp nối liền các bang đông bắc của Ấn Độ với phần còn lại của lãnh thổ, thường được ví von là “cổ gà”. Nếu kiểm soát được cao nguyên Doklam, một khi xung đột xảy ra, Trung Quốc có thể cô lập toàn bộ các bang đông bắc của Ấn Độ, bao gồm khu vực tranh chấp Arunachal Pradesh, bằng cách chặt đứt “cổ gà” Siliguri ở cách đó không xa. Chính vì vị trí chiến lược của Doklam nên vào năm 1996, Trung Quốc từng đề nghị giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Bhutan bằng cách từ bỏ chủ quyền đối với 495 km2 ở hai thung lũng Jakarlung và Pasamlung để đổi lấy 269 km2 ở cao nguyên này. May mắn cho Ấn Độ là Bhutan đã cự tuyệt đề nghị của Trung Quốc, xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa New Delhi và Thimphu. Đến năm 1998, Bhutan và Trung Quốc ký thỏa thuận cam kết “duy trì hòa bình và ổn định” ở khu vực biên giới hai nước dù Bắc Kinh và Thimphu cho đến nay vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao.

Trong những tuần qua, căng thẳng bùng phát tại khu vực biên giới giữa ba nước sau khi Ấn Độ và Bhutan tố cáo Trung Quốc xây một con đường dẫn từ thung lũng Chumbi sang cao nguyên Doklam. Dưới góc độ chiến lược, Ấn Độ xem con đường này như một con dao găm kề vào yết hầu của mình là hành lang Siliguri. Chính vì thế, dù không có hiệp ước phòng thủ chính thức với Bhutan, Ấn Độ đã triển khai binh sĩ ngăn chặn Trung Quốc xây đường ở cao nguyên Doklam. Đây cũng là “đầu dây mối nhợ” cho những tranh cãi gay gắt giữa Bắc Kinh và New Delhi những ngày qua. Trung Quốc bực tức khi Ấn Độ can thiệp vào vấn đề giữa nước này với Bhutan. Bản thân Bhutan lại đứng về phía Ấn Độ khi gửi công hàm tố cáo Trung Quốc vi phạm thỏa thuận hòa bình ở biên giới và yêu cầu Bắc Kinh khôi phục nguyên trạng.

Tranh chấp tay ba ở Himalaya - ảnh 1

Lược đồ khu vực biên giới 3 nước Đồ họa: C.C

Tranh chấp tay ba ở Himalaya - ảnh 2

Thung lũng Chumbi có hình dạng con dao găm Đồ họa: C.C

“Hai cuộc chiến rưỡi”

Tình hình căng thẳng leo thang khi quân đội Trung Quốc từ chối cho phép người Ấn Độ hành hương đến đỉnh núi thiêng Kailash ở Tây Tạng băng qua cửa khẩu Nathu La nối bang Sikkim với khu tự trị bên phía Trung Quốc. Những hình ảnh xô đẩy giữa binh sĩ Trung Quốc và Ấn Độ ở biên giới cũng lan truyền trên mạng. Trung Quốc khẳng định vụ xô đẩy bắt nguồn từ việc binh sĩ Ấn Độ ngăn cản hoạt động xây đường của họ. Sau đó, lính Trung Quốc được cho là ủi sập một boong-ke cũ của Ấn Độ nằm ở khu vực giao nhau giữa biên giới ba nước để trả đũa.

Cuộc đối đầu đến nay vẫn chưa hề có dấu hiệu hạ nhiệt. Theo tờ The Times of India, Ấn Độ và Trung Quốc mỗi nước đã triển khai khoảng 3.000 binh sĩ đến khu vực. Ngày 29.6, Tham mưu trưởng lục quân Ấn Độ Bipin Rawat thực hiện chuyến thị sát 2 ngày ở Sikkim để theo dõi tình hình. Khi căng thẳng bùng phát vào đầu tháng, đại tướng Rawat đã tuyên bố quân đội Ấn Độ hiện sẵn sàng cho “hai cuộc chiến rưỡi”, ám chỉ về hai cuộc xung đột với Pakistan và Trung Quốc và việc xử lý những bất ổn trong nước.

Ngày 30.6, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã lên án phát biểu của tướng Rawat là “vô trách nhiệm”, đồng thời cảnh báo New Delhi nên “rút ra bài học lịch sử”, ý nhắc đến cuộc chiến năm 1962 giữa hai nước. Và Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ Arun Jaitley lập tức phản pháo: “Tình hình năm 1962 khác và Ấn Độ năm 2017 cũng khác”.

Cũng trong ngày 30.6, chính phủ Ấn Độ đưa ra phản ứng chính thức về vụ đối đầu, cho hay binh sĩ nước này đang phối hợp với quân đội Bhutan để ngăn cản Trung Quốc xây đường và “đơn phương thay đổi hiện trạng”. Tuy vậy, tuyên bố của Bộ Ngoại giao Ấn Độ khẳng định nước này “cam kết hợp tác với Trung Quốc để tìm giải pháp hòa bình cho mọi vấn đề ở khu vực biên giới thông qua đối thoại”.

Quan hệ đặc biệt Ấn Độ – Bhutan

Ấn Độ duy trì lợi thế với Trung Quốc ở Himalaya nhờ mối quan hệ lâu đời với Bhutan. Năm 1949, hai nước ký kết Hiệp ước Hữu nghị Ấn Độ – Bhutan, trong đó có điều khoản quy định chính phủ Bhutan sẽ chấp nhận để cho Ấn Độ vạch ra đường lối đối ngoại của họ. Đến năm 2007, hiệp ước được sửa đổi trong lúc Bhutan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến và điều khoản nêu trên đã được xóa bỏ. Tuy nhiên, Ấn Độ được cho là vẫn đóng vai trò then chốt trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Bhutan ở những lĩnh vực nhạy cảm. Ngoài quan hệ ngoại giao, Ấn Độ còn là đối tác kinh tế và thương mại hàng đầu cũng như là nhà tài trợ hào phóng của Bhutan.

Trái lại, không lâu sau khi CHND Trung Hoa được thành lập, nước này đã công bố bản đồ mô tả một khu vực rộng lớn ở Bhutan như là “lãnh thổ thời tiền sử của Trung Quốc”. Năm 1960, giới lãnh đạo Trung Quốc đưa ra tuyên bố: “Người Bhutan, người Sikkim và người Ladakh hình thành một gia đình chung ở Tây Tạng. Họ luôn là dân của Tây Tạng và của tổ quốc Trung Quốc vĩ đại. Họ phải được thống nhất một lần nữa…”. (Vương quốc Sikkim tự nguyện sáp nhập vào Ấn Độ năm 1975, trở thành bang thứ 22 của nước này, còn Ladakh là khu vực thuộc bang Jammu và Kashmir ở Ấn Độ, cũng là đối tượng tranh chấp với Trung Quốc). Bhutan đã phản ứng với tuyên bố của Trung Quốc bằng cách đóng cửa biên giới và cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao kể từ đó.

Công Chính

TUYÊN BỐ PHẢN ĐỐI BẢN ÁN DÀNH CHO BÀ NGUYỄN NGỌC NHƯ QUỲNH (MẸ NẤM) CỦA HỘI CỰU TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM

FVPoC, ngày 1/7/2017

Vào ngày 29-6-2017, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã xét xử gấp gáp trong một ngày và tuyên bản án nặng nề 10 năm tù giam dành cho bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm).

CHÚNG TÔI NHẬN ĐỊNH như sau:

  1. Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đưa ra để truy tố bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh không dựa trên bất kỳ chứng cứ nào được xác lập theo luật định;
  2. Các chứng cứ dùng để buộc tội bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh mơ hồ và được xác lập chủ yếu dựa trên suy đoán, mà theo cách như vậy có thể dùng để buộc tội bất kỳ ai, không riêng bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh;
  3. Việc phát biểu ôn hòa về các vấn nạn của đất nước và xã hội Việt Nam, dù trái với quan điểm và chính sách của nhà cầm quyền, dứt khoát không thể là hành vi phạm tội theo luật pháp hiện hành;
  4. Phản đối và yêu cầu khởi tố tập đoàn Formosa trước pháp luật do thảm họa môi trường mà doanh nghiệp bẩn thỉu này gây ra hoàn toàn là quyền và trách nhiệm pháp lý của mọi công dân Việt Nam, không riêng của bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh;
  5. Chống lại hành động gây hấn và xâm phạm chủ quyền Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh là trách nhiệm lương tâm của mọi người Việt yêu nước dù ở bất kỳ nơi đâu, không riêng của bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, ngoại trừ những kẻ cam tâm luồn cúi ngoại bang và rắp tâm bán nước;
  6. Tại phiên tòa xét xử vào ngày 29-6-2017, mọi đề nghị hợp lý và hợp lệ của các luật sư biện hộ cho bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã không được chủ tọa phiên tòa lắng nghe và chấp nhận, đó là hành động cố ý và trái pháp luật; các luật sư cũng bị ngăn cản nêu câu hỏi xác định hành vi của bị cáo và không được tranh luận với đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố;
  7. Bản án đã được cơ quan an ninh quyết định từ trước ngày xét xử và không phải là kết quả của một tiến trình tố tụng hợp lệ và hợp pháp theo luật định; hội đồng xét xử vào ngày hôm đó chỉ đóng vai con rối trong vở kịch đã được dàn dựng từ trước một cách lố bịch;
  8. Phiên tòa tuy mang tiếng công khai, nhưng chỉ những ai được cơ quan an ninh nhà nước cho phép tham dự mới được phép vào nơi xử án; và
  9. Bản án 10 năm tù dành cho bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là sự phỉ nhổ đối với một nền tư pháp vận hành theo lợi ích và sự sai khiến của đảng cầm quyền.

VÌ NHỮNG LẼ NÊU TRÊN, CHÚNG TÔI, CÁC HỘI VIÊN CỦA HỘI CỰU TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM, TUYÊN BỐ như sau:

Thứ nhất, bác bỏ hoàn toàn các cáo buộc và chứng cứ buộc tội của nhà cầm quyền Việt Nam đối với bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Thứ hai, bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh có quyền tự do ngôn luận và quyền bình đẳng trước pháp luật, mà nhà cầm quyền phải tôn trọng.

Thứ ba, việc thực hiện quyền và trách nhiệm công dân đối với các vấn nạn của đất nước và xã hội Việt Nam hoàn toàn hợp hiến và hợp pháp; chỉ những ai ngăn cản công dân thực hiện quyền và trách nhiệm đó mới là kẻ phạm pháp và cần phải bị trừng trị theo pháp luật.

Thứ tư, bản án 10 năm tù dành cho bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được tuyên hoàn toàn trái pháp luật và, do đó, vô giá trị.

Thứ năm, nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Thứ sáu, không được sử dụng án tù nặng nề của các tù nhân chính trị làm hàng hóa đổi chác lợi ích thương mại với các quốc gia khác, vì đó là hành động bỉ ổi và đáng bị lên án.

Lập tại Việt Nam, ngày 1 tháng 7 năm 2017

Đại diện Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm

Hai Đồng Chủ tịch LM Phan Văn Lợi và BS Nguyễn Đan Quế

NGHỊ VIỆN CALIFORNIA SẼ KHÔNG CHÍNH THỨC TIẾP PHÁI ĐOÀN CỘNG SẢN VIỆT NAM

1
Một phái đoàn đại biểu quốc hội CSVN dự định viếng ​​thăm Nghị Viện California vào ngày 3 tháng 7, sẽ không được các vị dân cử tiểu bang California tiếp đón một cách chính thức.
Một thông cáo từ Văn phòng Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn gửi ra tối Thứ Năm 29/06, xác nhận bà đã nhận được sự bảo đảm này từ Văn phòng Chủ tịch Thượng Viện California Kevin de Leon.

Theo đó, phái đoàn đại biểu quốc hội CSVN sẽ không được giới thiệu trong phòng họp khoáng đại Thượng Viện, cũng như lá cờ CSVN sẽ không được xuất hiện trong phòng họp khoáng đại Thượng Viện.

Trước đó, vào hôm Thứ Ba 27/06, Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn đã gửi thư đến Thượng nghị sĩ Kevin de Leon, phản đối việc tiếp đón phái đoàn CSVN. Phái đoàn này bao gồm 8 thành viên do Chủ tịch Ủy Ban Kinh Tế Vũ Hồng Thanh đứng đầu, dự định ​​sẽ viếng thăm thủ phủ Sacramento vào Thứ Hai ngày 3 tháng 7. Mặc dù phái đoàn này sẽ không được tiếp đón long trọng, Văn phòng Chủ Tịch Thượng Viện cho biết, phái đoàn vẫn yêu cầu gặp riêng một số thành viên của Thượng Viện, Hạ Viện và giới chức hành pháp California.

Về vấn đề này, Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn nói rằng, nhà cầm quyền CSVN không cùng quan điểm về tự do và dân chủ với tiểu bang California. Vì vậy, bất cứ cuộc họp nào giữa phái đoàn quốc hội CSVN và các thành viên của Thượng Viện California sẽ là một sự xúc phạm đối với nền tự do dân chủ.

SBTN

Phạt UberPool, GrabShare và thói quen không quản nổi là cấm

0
Bạch Hoàn

Tôi thực sự không thể hiểu nổi, tại sao Bộ Giao thông vận tải lại cấm một loại hình dịch vụ sáng tạo, có lợi cho cả người dân, doanh nghiệp và cộng đồng như UberPool, GrabShare?

Tôi đang tự đặt ra câu hỏi này sau khi đặt xe ra sân bay cách đây vài ngày, nghe tài xế cho biết một dịch vụ tiết kiệm tiền cho hành khách, nói nôm na là dịch vụ cho hai hành khách đi chung xe nếu cùng tuyến đường, giúp giảm giá cước tới 30% của Uber và Grab đã bị Bộ Giao thông vận tải cấm tuyệt đối. Đó là dịch vụ GrabShare của Grab và UberPool của Uber. Nếu các doanh nghiệp còn tiếp tục triển khai hai dịch vụ đi chung xe này, Bộ Giao thông vận tải sẽ phạt từ 4-6 triệu đồng mỗi lần phát hiện.

Tôi thực sự không thể hiểu nổi, tại sao Bộ Giao thông vận tải lại cấm một loại hình dịch vụ sáng tạo, có lợi cho cả người dân, doanh nghiệp và cộng đồng? Có vẻ như, lựa chọn không quản được thì cấm đã trở thành thói quen, quen tới mức giống như phản xạ của các cơ quan quản lý ngành ở Việt Nam.

Tôi sẽ phân tích kĩ hơn về hành vi cấm cản của Bộ Giao thông vận tải đã đi ngược lợi ích của người dân ra sao.

Ví dụ, GrabShare là một dịch vụ mà hai hành khách trên cùng một quãng đường có thể đi chung một xe, nhờ đó giảm chi phí. Thay vì hành khách 1 phải trả khoảng 100.000 đồng/chuyến, hành khách 2 phải trả 150.000 đồng/chuyến, thì khi đi chung xe, hai hành khách sẽ được giảm tới 75.000 đồng.

Quyết định cấm không được triển khai dịch vụ này của Bộ Giao thông vận tải đã gián tiếp lấy mất tiền của người dân. Lẽ ra, khi được sử dụng các dịch vụ đi chung xe, chi phí đi lại của hành khách có thể giảm ít nhất 30%. Trong khi đó, tiêu hao năng lượng có thể giảm tới 50%.

Chưa hết, ở các thành phố lớn, người dân đã quá mệt mỏi với vấn nạn kẹt xe. Bao nhiêu năm nay, chính Bộ Giao thông vận tải cũng ra rả kêu ca kẹt xe và loay hoay các giải pháp làm giảm ùn tắc. Thế nhưng, kêu cứ kêu và tắc cứ tắc. Hậu quả là người dân mất quá nhiều thời gian vào việc di chuyển. Nền kinh tế bị lấy mất một nguồn lực không hề nhỏ.

Trong khi đó, các dịch vụ đi chung xe có thể giảm tới một nửa số xe di chuyển. Thay vì hai hành khách đi hai xe trên đường, thì ứng dụng công nghệ để những khách hàng đi cùng tuyến đường có thể đi chung trên một xe và nhờ đó chỉ cần một xe di chuyển trên đường. Điều này chắc chắn làm giảm kẹt xe. Vậy thì tại sao Bộ Giao thông vận tải lại cấm? Hay là tắc đường như vậy còn chưa đủ? Dân còn chưa mệt? Kinh tế còn chưa thiệt hại? Môi trường còn chưa ô nhiễm?

Nhiều nước khuyến khích dịch vụ đi chung xe như UberPool hay GrabShare.

Ở nhiều quốc gia, khi đi vào trung tâm thành phố, thậm chí còn có quy định không được đi xe chỉ có một người. Điều đó có nghĩa là họ khuyến khích các dịch vụ đi chung xe. Đơn giản bởi việc đi chung xe không chỉ làm giảm chi phí cho người dân mà còn giảm phát thải, từ đó hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường, đồng thời là giải pháp hạn chế kẹt xe.

Các dịch vụ đi chung xe của Uber và Grab đã được sử dụng ở nhiều quốc gia như: Singapore, Indonesia, Mỹ, Úc… Vậy nhưng sang đến Việt Nam, lập tức bị Bộ Giao thông vận tải “chặn đường”. Lý do là quy định chỉ cho phép một hành khách đi một hợp đồng xe.

Thật ấu trĩ khi giữ tư duy người dân, doanh nghiệp chỉ được làm những gì luật cho phép. Xã hội không ngừng phát triển, sự sáng tạo của con người là không giới hạn. Với những dịch vụ có lợi cho người dân và cộng đồng mà chưa có quy định, nếu là nhà quản lý có tâm, có tầm thì phải lập tức bổ sung để điều chỉnh, tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp phát triển và người dân được thụ hưởng lợi ích từ những dịch vụ ấy, chứ không phải ra một văn bản cấm, thế là xong, là hết trách nhiệm.

Hành động của Bộ Giao thông vận tải, có thể nói là can thiệp thô bạo vào quy luật của kinh tế thị trường. Đơn giản là vì, việc đi chung xe là thoả thuận giữa doanh nghiệp và khách hàng, giữa khách hàng với khách hàng. Tất cả các bên tham gia hành trình đều đồng ý với thoả thuận ấy, thì lý gì cơ quan quản lý nhà nước lại thò tay vào cấm đoán, ngăn cản? Trong khi lẽ ra, việc của họ là cổ vũ cho những dịch vụ “ích nước, lợi nhà” như vậy. Đồng thời, trách nhiệm giám sát của cơ quan quản lý nhà nước ở đây chỉ đơn giản là đảm bảo số hành khách không được vượt quá số ghế trên xe.

Thật tiếc là Bộ Giao thông vận tải đã không làm được một việc vừa đơn giản, vừa văn minh, vừa đúng với tinh thần kiến tạo của Chính phủ.

Bộ GTVT từng lo ngành hàng không vét hết khách của đường sắt. Ảnh: TTXVN

Bộ GTVT từng lo ngành hàng không vét hết khách của đường sắt. Ảnh: TTXVN

Bộ Giao thông vận tải, hết lo lắng ngành hàng không vét hết hành khách của ngành đường sắt vốn trì trệ với một dịch vụ vô cùng tệ hại, rồi lại giữ quan điểm không nên mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất về phía sân golf, nay lại cấm những dịch vụ vận tải mới có lợi cho xã hội nhưng bất lợi cho vài doanh nghiệp taxi truyền thống lạc hậu, lười thay đổi. Chỉ cần ba vụ việc là đủ thấy tư duy và cung cách làm việc của Bộ này đang có vấn đề.

Chính phủ bàn rất nhiều về cách mạng công nghiệp 4.0. Thế nhưng, có vẻ như quyết định của Bộ Giao thông vận tải mới chỉ đang ở giai đoạn 0,4!

Nếu cứ ban hành những quyết định bừa bãi, can thiệp vào quy luật kinh tế thị trường, đi ngược lợi ích của người dân và doanh nghiệp, thì có lẽ chẳng bao giờ chúng ta có thể đuổi kịp Singapore mà chính các nhà quản lý vẫn lấy ra làm mốc so sánh và mơ ước. Thậm chí, nếu cứ như thế này, một ngày không xa, cái mốc để chúng ta phấn đấu hướng đến, không còn lại Singapore nữa mà có thể sẽ là Lào, Campuchia…

Ai sẽ chịu trách nhiệm cho tất cả những trì trệ này?!

Hồng Kông trong bàn tay thép của Trung Quốc

0
RFI
media

Theo tinh thần nguyên tắc « một quốc gia hai chế độ », Hồng Kông phải được hưởng tự do dân chủ cho đến năm 2047. Đây là những quyền chính trị xa lạ đối với người dân tại lục địa. Tuy nhiên, 20 năm sau ngày nhượng địa cũ của Anh Quốc được trao lại cho Trung Quốc, đông đảo người dân Hồng Kông cảm thấy các quyền tự do tại đặc khu hành chính bị thu hẹp dần dần. Hai chế độ đâu không thấy mà chỉ thấy hai bàn tay thép.

Trưng cầu dân ý trước 2047 ?

Trong bối cảnh chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sắp đi Hồng Kông dự lễ kỷ niệm, giáo sư Lâm Lập Hoà (Willy Lam), một nhà phân tích có uy tín nhận định một cách khéo léo : nguyên tắc một quốc gia đang lấn át nguyên tắc hai chế độ.

Trong khi đó, giới tranh đấu dân chủ không giấu lo âu. Đối với Hoàng Chi Phong, 20 tuổi, một trong những khuôn mặt tiên phong của phong trào xuống đường năm 2014 thì vùng lãnh thổ 1000 km2 này đang đứng trước một khúc quanh : Quy chế chính trị của Hồng Kông đang bị đe dọa.

Cho đến nay thì Hồng Kông vẫn còn những đặc quyền so với Hoa lục, như tự do phát biểu, tư pháp độc lập và một chút dân chủ trong việc bầu cơ quan lập pháp. Thế nhưng, nhiều biến cố gần đây làm công luận nghi ngờ ý đồ của Bắc Kinh như là vụ bắc cóc năm nhân viên và chủ nhân một nhà sách, chuyên phát hành các cuốn « thâm cung bí sử » của giới lãnh đạo Trung Quốc. Bằng mọi giá, Bắc Kinh không để vi-rút dân chủ lan sang Hoa lục.

Từ khi phong trào Dù Vàng làm tê liệt Hồng Kông trong hai tháng của năm 2014, lời kêu gọi Hồng Kông tự trị, thậm chí độc lập, ngày càng xuất hiện nhiều.

Hoàng Chi Phong, nay là lãnh đạo đảng Demosito, lưu ý là trước năm 1997, người dân Hồng Kông chưa bao giờ được Luân Đôn và Bắc Kinh hỏi ý kiến. Phải tổ chức trưng cầu dân ý về tương lai của Hồng Kông, trước khi hiệp ước chuyển tiếp Trung Quốc – Anh Quốc hết hạn vào năm 2047, đó là mục tiêu tranh đấu của đảng đối lập này.

Tuy nhiên, công luận Hồng Kông bị phân hóa. Một phần dân chúng muốn yên phận vì thấy Trung Quốc quá mạnh. Phần khác, nhất là doanh nhân và chính trị gia chuyên nghiệp được Trung Quốc ưu đãi, tiếp tục bảo vệ tư lợi. Cựu lãnh đạo an ninh Hồng Kông Diệp Lưu Thục Nghi (ReginaIp), một người bị phe dân chủ gọi là tay sai của Trung Quốc, cho rằng quy chế « bán tự trị đứng vững » cần gì thay đổi. Tân trưởng đặc khu Lâm Trịnh Nguyệt Nga (Carrie Lam), thân Trung Quốc, cam kết «hàn gắn » mối xung khắc giữa hai cộng đồng, nhưng dứt khoát bác bỏ chủ trương độc lập với Hoa lục.

Ngoài yếu tố chính trị, người dân Hồng Kông còn bị chia rẽ vì cách biệt giàu nghèo ngày càng lớn và vì giá nhà đất leo thang, do đầu tư địa ốc của doanh nhân Hoa lục. La Quán Thông (Nathan Law), dân biểu đối lập và cũng là người trẻ nhất trong nghị viện, bi quan : người Hông Kông đã mất hết hy vọng. Đó là vấn đề rất lớn của Hồng Kông.

Xem gương Hồng Kông nhìn lại Biển Đông

Theo Japan News, lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là Tập Cận Bình không có ý đồ bóp chết Hồng Kông. Áp lực tại Hồng Kông xuất phát từ cá tính độc đoán của nhân vật được mô tả là « đệ tử hàng đầu của Mao ». Nếu quan sát kỹ, chính sách của Tập Cận Bình thi hành tại Hồng Kông diễn ra cùng lúc và cùng chiều tại Hoa Lục và trên biển : đàn áp nhân quyền, kềm kẹp tự do ngôn luận trong nước và ráo riết bành trướng ở Biển Đông và Hoa Đông.

Theo lý giải của các quan chức của đảng Cộng Sản Trung Quốc thì căng thẳng hiện nay không phải do đối chọi ý thức hệ, mà là do « xung đột giá trị toàn diện ». Nói cách khác, Bắc Kinh tìm cách trấn áp mọi phong trào chống đảng Cộng Sản và ngược lại để sống còn, Hồng Kông tìm mọi cách bảo vệ các quyền tự do.

Về lâu về dài, xung khắc này có thể xem là hệ quả cuộc đối đầu giữa hai phong trào : một bên là nỗ lực dân chủ hóa Trung Quốc và bên kia là Hán hóa Hồng Kông.

Bất đồng trong hồ sơ Bắc Triều Tiên phủ bóng thượng đỉnh Mỹ-Hàn

0

RFI

Minh Anh 

Tổng thống Donald Trump hôm nay 29/06/2017 tiếp đồng nhiệm Hàn Quốc Moon Jae In. Theo thông lệ, cuộc gặp sẽ diễn ra trôi chảy. Nhưng tổng thống Mỹ, luôn bị ám ảnh về Bắc Triều Tiên và chưa xác định rõ làm cách nào giải quyết hồ sơ hạt nhân của Bình Nhưỡng, trong khi đó, nguyên thủ Hàn Quốc lại công khai chủ trương hòa đàm với Bắc Triều Tiên.

Theo giới chuyên gia, cuộc gặp thượng đỉnh lần này được dự báo là sẽ căng thẳng do những bất đồng trong cách giải quyết hồ sơ nguyên tử Bắc Triều Tiên.

Tân tổng thống Hàn Quốc, Moon Jae In cho rằng để làm hạ nhiệt căng thẳng leo thang đang đe dọa thế cân bằng địa chính trị vốn dĩ mong manh tại vùng Bắc Á, cần gấp rút nối lại đàm phán với chế độ Bình Nhưỡng. Theo tờ Korea Herald, chủ trương này đã được cố vấn đặc biệt của tổng thống, ông Moon Chung In, hôm thứ Bảy 24/6 nêu rõ qua hai chi tiết trong chuyến đi đến Washington.

Thứ nhất, Hàn Quốc có thể đề nghị Hoa Kỳ xem xét lại quy mô các cuộc tập trận chung thường niên và việc triển khai thiết bị quân sự chiến lược của Mỹ để đổi lấy việc Bắc Triều Tiên « đình chỉ » các chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo.

Đề nghị này đã làm dấy lên nhiều chỉ trích cho rằng có thể làm suy yếu các nỗ lực của các đồng minh hình thành một mặt trận chung chống Bắc Triều Tiên.

Thứ hai, về phương thức đàm phán, ông Moon Chung In nhấn mạnh rằng « cách thức đàm phán liên Triều không nhất thiết phải giống như giữa Mỹ với Bắc Triều Tiên ».

Tổng thống Hàn Quốc muốn làm sống lại chính sách Vầng Thái Dương của cố tổng thống Roh Moo Hyun, chủ trương xích lại gần với Bắc Triều Tiên, khi đề xuất một đoàn thể thao chung cho hai miền Bắc-Nam cho thế vận hội mùa đông, dự kiến sẽ diễn ra vào tháng 2/2018 tại Pyeongchang. Một sáng kiến cũng được tổng thống Pháp Emmanuel Macron đánh giá cao.

Thế nhưng, chủ trương mở rộng vòng tay này của Seoul đã vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ của chính quyền Donald Trump. Phe cứng rắn, vốn dĩ đã cho xếp xó « chiến lược kiên nhẫn »của Barack Obama, chủ trương đánh « răn đe » nhắm vào các cơ sở hạt nhân của chế độ Bình Nhưỡng. Đối với Washington, chính sách Vầng Thái Dương đã « lỗi thời và ngây thơ ».

Bất đồng Mỹ-Hàn tăng gấp bội xung quanh việc lắp đặt hệ thống lá chắn tên lửa THAAD. Donald Trump muốn đồng minh châu Á này phải chia sẻ gánh nặng tài chính. Để đáp trả, ông Moon Jae In đã ra lệnh đình chỉ chương trình này trong vòng một năm. Một cử chỉ làm hài lòng Trung Quốc.

Do đó, như nhận định của Le Figaro (29/06/2017), trước ống kính báo giới, nguyên thủ Mỹ-Hàn chắc vẫn phải nở những nụ cười xã giao. Nhưng một khi cánh cửa sập vào, cuộc gặp thượng đỉnh có thể chuyển thành tranh cãi và các bất đồng Washington – Seoul sẽ có lợi cho Bình Nhưỡng và Bắc Kinh, vốn dĩ cũng đang rập rình chờ xem.

Tổng thống Philippines : Một năm sóng gió nhưng vẫn trên đỉnh cao

RFI

Vào ngày này cách nay đúng một năm, ông Rodrigo Duterte chính thức nhập chức tổng thống Philippines. Trong một năm qua, ông đưa người dân Philippines vào hành trình « sóng gió » với các vụ giết người trong cuộc chiến chống ma túy, chống khủng bố và chuyển hướng ngoại giao. Thế nhưng, một năm sau, tuyệt đại đa số người dân Philippines vẫn tin tưởng vào vị tổng thống 72 tuổi này.

Trong lễ tuyên thệ nhậm chức cách đây một năm, ông đã cảnh báo : « Hành trình sẽ đầy sóng gió. Nhưng hãy sánh bước cùng tôi ! ».

Sóng gió bắt đầu với lời tuyên chiến chống tệ nạn buôn bán ma túy. Theo thống kê chính thức, 3.171 tội phạm và người nghiện ma túy đã bị cảnh sát triệt hạ. Ngoài ra, còn có 2.098 người bị sát thủ nặc danh giết hại vì liên quan đến ma túy và khoảng 8.200 người bị giết mà không rõ động cơ. Giới bảo vệ nhân quyền cảnh báo tổng thống Duterte đang phạm phải tội ác chống nhân loại, đồng thời cáo buộc ông xúi giục cảnh sát tham nhũng và các biệt đội tử thần ra tay giết người hàng loạt.

Cho đến nay, cuộc chiến bài trừ ma túy vẫn là ưu tiên hàng đầu của tổng thống Philippines. Thế nhưng, từ cuối tháng Năm vừa qua, ông Duterte phải đối phó với một thách thức khác : Đó là khủng bố, với việc các nhóm Hồi Giáo cực đoan vũ trang tuyên thệ trung thành với tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo – Daech, đánh chiếm nhiều khu vực ở thành phố Marawi, phía nam đảo Mindanao.

Với cáo buộc quân thánh chiến muốn lập đế chế Hồi Giáo « califat », tổng thống Duterte ban hành ngay thiết quân luật trên khắp vùng Mindanao, nơi có đến 20 triệu người sinh sống. Dù tăng cường oanh kích với sự hỗ trợ của chiến đấu cơ Mỹ và Úc, quân đội Philippines vẫn chưa diệt trừ tận gốc ổ thánh chiến này, trong khi có đến 400 người thiệt mạng.

Về mặt đối ngoại, chính sách ngoại giao nguyên trạng trong vài thập kỷ qua bị thay đổi hoàn toàn. Ông Duterte không ngại tung những lời thóa mạ nhắm vào đồng minh Hoa Kỳ truyền thống, gọi tổng thống Mỹ Barack Obama là « đồ chó đẻ ».

Tạm gác tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc tại Biển Đông, từng làm quan hệ song phương trở nên căng thẳng trong nhiệm kỳ trước, tổng thống Philippines cố hâm nóng quan hệ với Bắc Kinh. Sau chuyến công du Trung Quốc năm 2016 của ông Duterte, Trung Quốc hứa đầu tư khoảng 24 tỉ đô la Mỹ vào Philippines, trong đó có 15 tỉ đô la dành cho đầu tư và 9 tỉ đô la cho vay với lãi suất ưu ái.

Phe đối lập cảnh báo Manila vẫn chưa nhìn thấy những đồng tiền đó và chưa chắc đã được hưởng trọn vì tình trạng tham nhũng, thiếu minh bạch và các thỏa thuận song phương có nhiều điều khoản bí mật có lợi cho Trung Quốc.

75% dân Philippines hài lòng về tổng thống

Thế nhưng, người dân Philippines vẫn không ngừng ủng hộ tổng thống Duterte. Theo kết quả cuộc thăm dò vào tháng 03/2017, 75% người dân hài lòng về tổng thống, trong khi chỉ có 9% không ủng hộ. Bỏ qua những tuyên bố bốc đồng và cục cằn của ông Duterte, người dân Philippines cho ông là gương mặt phản hệ thống, một người có đầu óc thực tế, đồng cảm và sẵn sàng hành động, với quy mô lớn, để làm thay đổi mọi việc.

Trả lời AFP, giáo sư Ricardo Abad, thuộc đại học Ateneo tại Manila, nhận xét : « Dân chúng yêu mến người đàn ông này ». Họ « có thể không đồng tình hoặc có thể vẫn lưỡng lự với chính sách của ông, nhưng vì họ quý trọng ông, nên họ vẫn tin vào tổng thống ».

Một lý do khác giải thích sự ủng hộ của người dân là « ông Duterte mở đầu một phong cách quản lý hoàn toàn mới và người dân có thể nghĩ rằng họ cần mô hình này », theo giáo sư khoa học chính trị Edmund Tayao, thuộc đại học Santo Tomas.

Dấu hiệu cuối cùng cho thấy sự nổi tiếng của tổng thống Philippines là ông có đa số gần tuyệt đối ở Hạ Viện với 296 ghế, trong khi phe đối lập chỉ có 7 ghế.

Một trong số lãnh đạo thuộc phe đối lập, Edcel Lagman, cũng phải khen ngợi « tổng thống Duterte duy trì được đoàn kết quốc gia theo cách riêng khó hiểu của ông ». Thế nhưng, vẫn theo ông Lagman, những lời hứa « thay đổi » này không được thể hiện qua việc làm. Và nếu còn tiếp tục tình trạng này thì « đa số gần như tuyệt đối »của tổng thống có thể vỡ tan.

Thường thì trong thời gian đầu nhiệm kỳ, đại diện các phe phái chính trị thường tập trung quanh vị tổng thống nổi tiếng. Nhưng khi gió đổi chiều, họ sàng rời thuyền ra đi.

Vietnamese blogger sentenced to 10 years in prison

CPJ.
Nguyen Ngoc Nhu Quynh stands trial in Khanh Hoa, Vietnam, June 29, 2017. (Vietnam News Agency via AP)

Nguyen Ngoc Nhu Quynh stands trial in Khanh Hoa, Vietnam, June 29, 2017. (Vietnam News Agency via AP)

New York, June 29, 2017–The Committee to Protect Journalists strongly condemns the 10-year prison sentence a Vietnamese court today imposed on blogger Nguyen Ngoc Nhu Quynh, also known as Mother Mushroom.

A court in the central Vietnamese province of Khanh Hoa convicted Quynh of distributing propaganda against the state after a one-day trial, news reports said. The blogger has been jailed since October 2016, when police arrested her as she tried to visit an imprisoned political activist.

“The harsh measures Vietnam has taken against journalists like Nguyen Ngnoc Nhu Quynh should be an embarrassment to the country’s rulers,” CPJ Asia Program Director Steven Butler said from Washington, D.C. “Quynh never should have spent a day behind bars. Condemning her to 10 years in prison for her writing is an obscene injustice.”

Quynh’s lawyer, Vo An Don, told The Associated Press that Quynh denied the charges against her and would appeal the verdict.