Home Blog Page 1120

Bắc Hàn đe dọa sẽ phóng thêm hỏa tiễn

0
RFA

Trong khi đó, chủ tịch Kim Jong- Un của Bắc Hàn lại nói sẽ có thêm những vụ phóng hỏa tiễn bay ngang qua Nhật Bản nữa.

Tờ Rodong Sinmun, cơ quan ngôn luận của đảng cầm quyền Bắc Hàn, trong ngày 30 tháng 8 cho đăng hơn 20 tấm hình chụp vụ phóng tên lửa từ vị trí gần thủ đô Bình Nhưỡng vào sáng ngày 29 tháng 8.

Một trong những tấm hình cho thấy cảnh chủ tịch họ Kim tươi cười trước tấm bản đồ vùng Tây Bắc Thái Bình Dương đặt trên bàn; vây quanh ông là những trợ lý. Tấm hình khác cho thấy chủ tịch Kim Jong-Un nhìn lên khi hỏa tiễn phóng vào không trung.

Hãng thông tấn KCNA của Bắc Hàn dẫn lời chủ tịch Kim Jong-Un rằng trong thời gian tới cần có thêm những vụ diễn tập phóng tên lửa đạn đạo nhắm vào mục tiêu Thái Bình Dương.

Vừa qua, Bắc Hàn đe dọa phóng loạt tên lửa đến lãnh thổ đảo Guam của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương; trong khi tổng thống Donald Trump cảnh báo sẽ có ‘lửa và thịnh nộ’ giáng xuống Bắc Hàn.

Triệu tập dân Đồng Tâm: dân và chính quyền trái quan điểm

RFA

Ai đúng ai sai?

Vụ việc Đồng Tâm lại khiến dư luận xôn xao khi cơ quan chức năng cả Công An và Quân Đội gửi giấy triệu tập đến người dân.

Giấy triệu tập người dân Đồng Tâm.

Trưởng Công an huyện Mỹ Đức, ông Lê Xuân Văn, nói về thông tin người dân Đồng Tâm bị triệu tập liên quan đến các hành vi mà cơ quan chức năng cho là vi phạm pháp luật trong vụ tranh chấp đất:

“Chuyện triệu tập là hết sức bình thường, cơ quan điều tra của Thành phố họ triệu tập theo luật, có vấn đề gì đâu.”

“Bọn em đừng có nghe người dân, họ nói thế thôi, chứ bây giờ bắt giữ công an trái phép và giam giữ người trái pháp luật từ ngày 15 đến ngày 22, mà cứ bảo là không vi phạm pháp luật.”
– ông Lê Xuân Văn, Trưởng công an Mỹ Đức

Một người dân ở xã Đồng Tâm, xin giấu tên xác nhận với chúng tôi thông tin nhiều người địa phương bị cơ quan chức năng triệu tập và cũng nói rằng người dân sẽ không làm theo nội dung tờ giấy này bởi vì họ không làm gì nên tội.

Ngoài ra, anh cũng bày tỏ sự không hài lòng khi chính quyền chỉ muốn quy kết tội cho dân Đồng Tâm vì vụ giam giữ 38 cán bộ, cảnh sát cơ động hồi tháng 4, mà không màng đến nguyên nhân vì đâu người dân phản ứng như vậy:

“Nếu người ta triệu tập rồi cố đàn áp thì người ta phải tự hỏi mình xem nguồn cơn từ đâu, chứ đâu có phải cứ như vậy về bắt người là bắt được đâu. Dân người ta không nghe đâu. Sao người ta không khởi tố những người đánh cụ Kình trước đi. Làm như thế là bất công.”

Cụ Lê Đình Kình, một trong 4 người bị công an Hà Nội bắt giữ hồi tháng 4 vừa qua, vào sáng ngày 27/8, xác nhận thông tin cụ nhận được giấy triệu tập từ Cơ quan Điều tra Hình sự Bộ Quốc phòng cũng như nhiều người khác nhận giấy từ phía Công an Hà Nội.

“Tất cả các giấy triệu tập thực ra bây giờ họ cứ đi làm nhũng nhiễu rất đông. Đến hàng trăm người lận. Cả công an huyện, cả công an thành phố, cả công an xã không những đưa giấy triệu tập mà còn bảo đi đầu thú.”

Tuy nhiên theo lập luận của vị cao niên lâu nay theo đuổi vụ việc tại Đồng Tâm, người dân bảo vệ đất nông nghiệp họ nên không có tội gì mà đi đầu thú. Cụ cho rằng phía chính quyền không có quyết định thu hồi đất, giao đất, không giải phóng mặt bằng, đền bù nhưng định lấy đất của người ta thì không sao; đó là một điều hết sức vô lý.

Khi được hỏi vậy người dân có dự tính đến gặp cơ quan chức năng theo nội dụng giấy triệu tập không, cụ Kình cho biết:

“Dân Đồng Tâm người ta bảo người ta không đi đâu cả, người ta chả có tội gì mà đi đâu cả! Bây giờ muốn giải quyết cái gì thì về văn phòng Đảng ủy xã Đồng Tâm và mời cán bộ và công dân ra đó để đối thoại. Nếu Viettel hay Mỹ Đức mà vẫn cố về tranh chấp, đến khi xảy ra án mạng thì anh nào sai anh ấy chịu trách nhiệm. Mà dân Đồng Tâm thì không bao giờ sai cả.”

Trưởng Công an huyện Mỹ Đức, ông Lê Xuân Văn, nói về thông tin người dân Đồng Tâm có thể sẽ không đến gặp cơ quan chức năng theo giấy triệu tập:

“Theo luật, người ta triệu tập 3 lần mà không đến thì người ta sẽ áp giải.

Nếu có tội thì người ta sẽ áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Bọn em đừng có nghe người dân, họ nói thế thôi, chứ bây giờ bắt giữ công an trái phép và giam giữ người trái pháp luật từ ngày 15 đến ngày 22, mà cứ bảo là không vi phạm pháp luật.

Thứ hai, đất là đất quốc phòng. Kết luận thanh tra của Chính phủ và Thành phố có rồi lại cứ bảo là đất của Đồng Tâm.

Người dân cứ ngồi ở nhà bảo không vi phạm gì, nhưng vụ án có hồ sơ, có căn cứ chứ sao bảo không vi phạm gì được.

Còn phạm tội gì thì công an Thành phố và cục điều tra hình sự của Bộ Quốc phòng đang thụ lý.

Triệu tập có rất nhiều dạng, có thể triệu tập người bị hại, nhân chứng, có thể anh có liên quan vụ án, có thể anh là bị can, bị cáo,…

Một số đối tượng như ông Kình chẳng hạn, ông đã bị công an thành phố khởi tố rồi. Hay thằng Công, thằng Ba, những nhân vật chính, người ta cũng khởi tố và ra lệnh bắt rồi. Bây giờ người ta tạm thời cho tại ngoại thôi.

Bây giờ người ta triệu tập là theo luật thôi. Nếu anh không chấp hành thì sau này người ta sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.”

dongtam
Người dân đặt chướng ngại vật trên một con đường vào xã Đồng Tâm Courtesy of plo.vn

 

Quyết giữ đất đến cùng!

Đáp lại những thắc mắc của chúng tôi khi một bên chính quyền muốn gặp người dân để điều tra làm rõ vụ án, còn người dân lại lên tiếng nói rằng họ sẽ không đến gặp, luật sư Hà Huy Sơn, đoàn luật sư Hà Nội giải thích một số khía cạnh pháp lý. Thứ nhất, ông nói rằng phía công an thành phố đã khởi tố vụ án bắt và giam giữ người trái phép và cố ý phá hoại tài sản đối với một số người dân Đồng Tâm. Vì vậy, theo ông, công an có quyền hợp pháp triệu tập người dân. Ông nói thêm:

“Phía Quốc phòng thì tôi không biết người ta đã có quyết định khởi tố hay chưa. Chỉ biết là trong giấy triệu tập người ta ghi là làm rõ vụ án thôi. Nếu có quyết định khởi tố rồi thì triệu tập là hợp pháp.

Trường hợp nếu người dân không đến thì cơ quan điều tra có thể áp dụng biện pháp dẫn giải.”

Vị luật sư này cũng gợi ý người dân dân nên thuê luật sư để giúp bảo vệ mình ngay giai đoạn đầu. Thêm nữa, nếu việc đi lại đến trụ sở cơ quan điều tra quá xa, ảnh hưởng đến công việc, đời sống hằng ngày thì có thể làm đơn đề nghị với cơ quan điều tra cho phép làm việc hay hỏi cung tại trụ sở công an xã cho gần. Theo ông, điều này luật pháp cho phép.

“Dân Đồng Tâm người ta bảo người ta không đi đâu cả, người ta chả có tội gì mà đi đâu cả!”
– Cụ Lê Đình Kình

Ngày 25/7 vừa qua, Thanh tra thành phố Hà Nội chính thức thông báo kết luận toàn bộ đất sân bay Miếu Môn, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội là đất quốc phòng.

Ngay sau đó người dân Đồng Tâm đã bày tỏ bất bình với kết luận này và làm đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan chức năng. Đến thời điểm này là hơn một tháng, cụ Kình cho biết thông tin về việc này:

“Đơn khiếu nại gửi lên Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Thủ tướng nhưng người ta chỉ gửi lại giấy nói là họ đã nhận được thôi chứ người ta về để đối thoại với mình hay trả lời mình là chưa có.”

Cụ Kình nói với chúng tôi rằng dân Đồng Tâm sẽ cương quyết giữ đất đến cùng, cho dù bất cứ chuyện gì xảy ra:

“Chỉ có khi nào Nhà nước có quyết định thu hồi đúng thẩm quyền đúng pháp luật, giải phóng mặt bằng, đền bù thỏa đáng thì lúc đó sẽ giải quyết. Còn bây giờ cứ cái kiểu nhận đất nhưng không có quyết định thu hồi gì cả thì người ta sẽ quyết giữ đến cùng. Nếu cố tình như vậy sẽ xảy ra xung đột.”

Cụ ông 82 tuổi này cũng tiết lộ rằng hiện tại khu đất đồng Sênh và sân bay Miếu Môn người dân Đồng Tâm đã tiến hành trồng cây để thể hiện quyết tâm giữ đất của họ.

Nhũng lạm cả kinh phí cho người nghèo

0
RFA

Tình trạng ăn chặn hoặc trục lợi công khai từ nguồn quĩ cho diện nghèo tiếp tục bị báo chí phanh phui.

Nhũng lạm bằng nhiều cách

Tin cho biết chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An, Ông Nguyễn Văn Hải thừa nhận  số tiền ngân sách 5, 7 tỷ đồng phân bổ cho học sinh nghèo năm học 2014-2015 đến nay vẫn chưa đến tay các em. Theo ông Hải thì lãnh đạo của huyện đã “quên” chi trả số tiền vừa nêu và ông Hải gọi vụ việc này là sự cố đáng tiếc cũng như sẽ khẩn trương hoàn trả số tiền 5, 7 tỷ đồng cho các em trong tuần cuối của tháng 8 năm nay.

Tin cũng nói Phòng Lao Động-Thương Binh & Xã Hội của Huyện Nga Sơn, Tỉnh Thanh Hóa cho biết đã xác minh được phản ánh của người dân liên quan thực trạng nhiều bà vợ của lãnh đạo Xã Nga Thanh ghép tên trong sổ hộ nghèo để hưởng tiền phúc lợi xóa đói giảm nghèo. Vụ việc này không phải mới xảy ra lần đầu tiên tại tỉnh Thanh Hóa, mà trước đó vào năm 2015, 12 con dê cấp cho các hộ nghèo đã được giao cho gia đình Bí thư Huyện Thạch Thành, ông Đỗ Minh Quý.

Tôi đăng ký hộ khẩu cho hai vợ chồng và được xét cho diện hộ nghèo. Lúc họ cấp thì một năm trước nhưng đến cuối năm thì họ mới giao cho mình. Họ cho mình được 350 ngàn đồng. Mình có hộ nghèo thì được trợ cấp hay muốn vay mượn tiền của nhà nước cũng được. Nhưng sau khi họ giao cho mình thì lại nói lúc đó đã hết hạn rồi. Họ giao cho mình nhưng mình không làm được gì nữa
-Người dân nghèo tại Gia Lai

Một trường hợp khác được nêu ra theo cáo giác của người dân ở Huyện Tiền Hải, Tỉnh Thái Bình là tiền xóa đói giảm nghèo bị biến thành tiền cho vay nóng từ những tháng đầu năm 2014. Người dân thuộc diện nghèo tại Huyện Tiền Hải nói với RFA thân nhân, người quen biết của cán bộ ngân hàng lập hồ sơ giả để vay tiền theo mức lãi suất ưu đãi dành cho hộ nghèo, từ 0 đến 0, 04% rồi cho dân chúng vay lại với lãi suất xấp xỉ 20% và thậm chí lên đến hơn 100%. Ông Nguyễn Trung Hải, một người dân địa phương nói với chúng tôi:

“Quanh đây, không có ai được vay cả. Bí thủ bí dĩ phải đi vay nóng của họ, lãi suất tới một trăm mấy phần trăm ấy chứ!”

Có những câu chuyện “dở khóc, dở cười” khác như trình bày của các hộ nghèo người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên, tại Thôn Kenh Hmek, Xã Iale, Huyện Chư Puh, Tỉnh Gia Lai. Theo lời một số người dân thuộc diện hộ nghèo ở đây cho Đài Á Châu Tự Do biết họ chỉ được nhận sổ hộ nghèo sau khi sổ này đã hết hạn. Một người sắc tộc Gia Rai kể lại:

“Hồi năm 2013, lúc đó tôi đăng ký hộ khẩu cho hai vợ chồng và được xét cho diện hộ nghèo. Lúc họ cấp thì một năm trước nhưng đến cuối năm thì họ mới giao cho mình. Họ cho mình được 350 ngàn đồng. Mình có hộ nghèo thì được trợ cấp hay muốn vay mượn tiền của nhà nước cũng được. Nhưng sau khi họ giao cho mình thì lại nói lúc đó đã hết hạn rồi. Họ giao cho mình nhưng mình không làm được gì nữa.”

Giải quyết thế nào?

Chính sách hỗ trợ giảm nghèo là một chủ trương lớn ở tầm vĩ mô của Nhà nước Việt Nam, nhưng bị đánh giá là không mang lại hiệu quả đích thực cho những người dân nghèo và trước thực trạng bị lạm dụng ngày một nghiêm trọng hơn, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh từng tuyên bố trong một hội nghị trực tuyến toàn quốc về thực hiện chương trình giảm nghèo là tiếng nói của nhiều người dân thuộc các hộ nghèo mong được chính phủ lắng nghe và cần phải chấn chỉnh lại tệ trạng này. Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh còn nhấn mạnh nếu Nhà nước để lâu dài thì rất nguy hiểm.

Đài RFA nêu vấn đề với Tiến sĩ Xã hội học Trịnh Hòa Bình và câu hỏi của chúng tôi dành cho ông là “Làm thế nào chương trình hỗ trợ người nghèo của chính phủ đạt được hiệu quả thực tiễn cho đời sống người dân?” Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình cho biết kiến nghị của ông với Chính phủ:

Nếu như có thể kiến nghị, đặt vấn đề gì đó với cấp vĩ mô thì chúng tôi vẫn yêu cầu quá trình thực hiện thì phải thông suốt và phải thường xuyên có kiểm tra, giám sát trong guồng máy hoạt động của Nhà nước
-TS. Trịnh Hòa Bình

Nếu như có thể kiến nghị, đặt vấn đề gì đó với cấp vĩ mô thì chúng tôi vẫn yêu cầu quá trình thực hiện thì phải thông suốt và phải thường xuyên có kiểm tra, giám sát trong guồng máy hoạt động của Nhà nước.”

Tuy nhiên Tiến sĩ Trịnh Hòa Bình khẳng định dù kiến nghị này của ông được lắng nghe và thực hiện thì cũng không thể nào giải quyết triệt để trong một sớm một chiều.

Trở lại hai vụ việc vừa mới phát hiện tại Tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Huyện Tương Dương tuyên bố sẽ xử lý đối với những ai sai trái trong việc không chi trả hơn 5 tỷ đồng tiền ngân sách phân bổ cho học sinh nghèo năm học 2014-205 cũng như Phó Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Huyện Nga Sơn quả quyết không bao che và sẽ đưa ra hướng xử lý về đảng và chính quyền khi có kết quả thanh tra.

Qua các trang Fanpage của hai tờ báo mạng VnExpress.net và Người Lao Động Online, nhiều độc giả yêu cầu Nhà nước phải nghiêm trị các quan tham trong những vụ như ở Huyện Tương Dương và Huyện Nga Sơn, xét xử công khai theo quy định của pháp luật để tỏ rõ quyết tâm chống tham nhũng và quản lý chính sách hỗ trợ người nghèo đạt hiệu quả.

Nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan vào năm 2013 từng phát biểu “họ ăn của dân không từ thứ gì”. Điều đáng nói là nguồn quĩ hỗ trợ cho những thành phần nghèo khó trong xã hội cũng bị cắt xén, lạm dụng một cách không thương xót.

Việt Nam thất bại trong việc kiểm soát mạng xã hội như thế nào

RFA

Gần đây Chủ tịch nước Trần Đại Quang có một bài viết nói rằng phải kiểm soát các thông tin độc hại trên Internet.

Báo chí Việt Nam cũng loan tin chính phủ Hà Nội đề nghị các đại công ty như Facebook và Google hợp tác trong vấn đề ngăn chận thông tin bị gọi là độc hại.

Sau đây là một số ý kiến cho rằng Việt Nam không thành công trong ý định ngăn chận mạng xã hội.

Một ước vọng cũ xưa

Một người sử dụng mạng xã hội Facebook rất tích cực tại Sài Gòn là anh Nguyễn Lâm Duy nhận xét về bài viết của Chủ tịch Trần Đại Quang:

“Thực ra việc thắt chặt thông tin trên mạng xã hội, trên internet nói chung thì đảng cộng sản đã thực hiện rất là lâu rồi ở Việt Nam, đặc biệt là thắt chặt thông tin do chính quyền quản lý, đưa ra cái cách họ đưa tin như thế nào. Đã có việc xét xử hay kết án tù rất nặng nề những người phát biểu trên mạng. Bài viết mới đây được cho là của ông Trần Đại Quang về việc thắt chặt những thông tin độc hại trên internet thì không có gì mới.”

Anh nói rằng đối với nhà nước Việt Nam hiện nay thì những tin tức có thể làm ảnh hưởng tới hình ảnh của đảng cộng sản, hay những lời phê bình chỉ trích nhà cầm quyền cũng được đảng cộng sản Việt Nam xếp vào loại thông tin độc hại.

Thực ra việc thắt chặt thông tin trên mạng xã hội, trên internet nói chung thì đảng cộng sản đã thực hiện rất là lâu rồi ở Việt Nam.
-Anh Nguyễn Lâm Duy.

Một người dùng Facebook tại Hà Nội là anh Nguyễn Chí Tuyến nói thêm là một số người nghi ngờ rằng bài viết của Chủ tịch Trần Đại Quang là một bài viết cũ cách đây vài năm được dùng lại. Anh cũng có nhận xét rằng khuynh hướng kiểm soát tư tưởng con người vốn là một đặc điểm của đảng cộng sản nên họ lúc nào cũng muốn kiểm soát thông tin và quan điểm của mọi người.

Anh Nguyễn Chí Tuyến là một thành viên rất tích cực của một tổ chức xã hội dân sự NoU, hoạt động bảo vệ môi trường, giúp đỡ người nghèo, đấu tranh chống sự chèn ép của Trung Quốc trên Biển Đông. Các thành viên nhóm này sử dụng phương tiện mạng xã hội rất tích cực để tổ chức các hoạt động của mình.

Anh Tuyến nhận xét cách mà người Việt Nam hiện nay bày tỏ quan niệm của mình trên mạng xã hội:

“Ở một góc độ nào đó, mạng xã hội ở Việt Nam lại thể hiện thật hơn là cuộc sống thật. Tức là người ta tìm thấy một sự can đảm, một sự cởi mở, hay là một luồng sinh khí tiếp sức cho người ta, làm cho người ta dám bày tỏ quan điểm một cách sòng phẳng, hơn là người ta dám bày tỏ những quan điểm ấy trong các cuộc họp hay là những cái đơn từ, xảy ra trong đời sống thực của người ta.”

Mô hình Trung Quốc

Theo một số nguồn tin khác nhau thì hiện Việt Nam có đến hơn 52 triệu tài khoản Facebook, mạng xã hội phổ biến nhất tại Việt Nam. Điều này trái ngược hẳn với Trung Quốc, nước láng giềng có cùng mô hình chính trị do đảng cộng sản độc quyền cai trị. Trung Quốc đã không cho phép các mạng xã hội nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc, mà thành lập riêng các mạng xã hội cho riêng mình.

Khi được hỏi liệu mô hình Trung Quốc có được Việt Nam áp dụng hay không, anh Nguyễn Chí Tuyến cho biết:

“Những gì Trung Quốc làm để cai trị người dân, hay quản trị đất nước, tùy theo cách hiểu, thì phía đảng cộng sản Việt Nam đều học hỏi theo họ. Nhưng mà học là một chuyện, còn có đem về thực hiện được trên đất nước Việt Nam trong thời điểm hiện tại hay không lại là một chuyện khác.

Điều đó rất là khó đối với một đất nước như Việt Nam. Có thể là những người cầm quyền Việt Nam, đảng cộng sản Việt Nam cũng muốn làm điều đó, nhưng mà với tiềm lực và vị thế của Việt Nam, cũng như là qui mô dân số, lãnh thổ, thì họ không thế làm giống như Trung Quốc được.”

Anh Nguyễn Lâm Duy đồng ý điều này và nêu một dẫn chứng là cách đây vài năm chính phủ Việt Nam đã nổ lực thành lập một mạng xã hội riêng cho mình có tên gọi Việt Nam Go, nhưng hoàn toàn thất bại.

Ngoài ra vào năm 2013, Việt Nam cũng đưa ra một công cụ tìm kiếm trên internet với sự hợp tác với nước Nga mang tên Cốc Cốc, nhưng cho đến nay vẫn không thấy công cụ này được người Việt Nam sử dụng một cách phổ biến.

Trong thời gian gần đây, có tin từ báo chí Việt Nam nói rằng các công ty lớn từ nước ngoài như Facebook và Google đồng ý hợp tác với Chính phủ Việt Nam để ngăn chận những thông tin độc hại. Từ đó có lo lắng rằng các công ty này sẽ cho chính quyền Việt Nam kiểm soát tài khoản trên mạng xã hội của người dùng Việt Nam.

Anh Nguyễn Lâm Duy nói các công ty đó không nên làm như vậy:

Chính phủ Việt Nam, đảng cộng sản Việt Nam chưa đủ tầm để mặc cả với các công ty kia (Facebook, Google).
-Anh Nguyễn Chí Tuyến.

“Những công ty như Facebook hay Google không nên đánh đổi quyền lợi của người tiêu dùng với những lợi nhuận mà họ có thể có bằng cách đạt được thỏa thuận nào đó với chính quyền, làm tổn hại đến quyền tiếp cận thông tin của khách hàng.”

Anh Nguyễn Chí Tuyến cho biết một số nhà báo nước ngoài tại Hà Nội nói với anh rằng các công ty này chưa có một thỏa thuận nào rõ ràng. Trong bài phân tích ngày 30 tháng Tám, hãng tin Reuters cũng cho rằng các áp lực của chính phủ Việt Nam lên hai công ty Facebook và Google chỉ có tác dụng một cách giới hạn, mặc dù hai công ty này từ chối không trả lời hãng tin Anh quốc về vấn đề này.

Anh Nguyễn Chí Tuyến cho rằng:

Chính phủ Việt Nam, đảng cộng sản Việt Nam chưa đủ tầm để mặc cả với các công ty kia, như là đảng cộng sản Trung Quốc, nhà cầm quyền Trung Quốc. Cho nên họ muốn nhưng không thể thực hiện được.”

Cũng từ Trung Quốc, tin cho hay mới đây Bắc Kinh bắt buộc tất cả những người sử dụng mạng xã hội của Trung Quốc phải công khai danh tính của mình khi ghi tên sử dụng mạng xã hội. Khi được hỏi liệu điều này sẽ được Việt Nam làm theo không, anh Nguyễn Lâm Duy đáp:

“Đó là một cái luật mà Trung Quốc áp đặt lên một công ty do chính quyền kiểm soát. Tôi nghĩ là trong tương lai gần chính quyền Việt Nam có thể bắt tất cả những người dùng Facebook sử dụng tên thật trên trang mạng xã hội này, vì công ty này ở nước ngoài hoạt động trên luật pháp của nơi mà họ đóng công ty. Tôi không nghĩ rằng yêu cầu đó của Việt Nam sẽ được Facebook đáp ứng.”

Bên cạnh những điều mà hai anh Tuyến và Duy cho rằng vượt qua ngoài khả năng của Chính phủ Việt Nam trong việc kiểm soát hoặc ngăn chận mạng xã hội, Reuters còn cho biết các công ty Việt Nam có nhu cầu sử dụng mạng xã hội rất lớn trong hoạt động thương mại của họ, điều đó dẫn đến việc ngăn chận mạng xã hội tại Việt Nam là không thể được.

Một yếu tố khác nữa là chính các giới chức chính quyền cũng sử dụng mạng xã hội, xem đó như một kênh để thu thập thông tin, như hai nhà báo tại Việt Nam là Trương Duy Nhất tại Đà Nẵng, và Phạm Chí Dũng tại Sài gòn cho chúng tôi biết.

Anh Nguyễn Chí Tuyến nhận xét:

Mặc dù họ có thể nói mạng xã hội nó làm một điều gì đó nó không tốt đẹp, hay là tác động xấu, tiêu cực đến cuộc sống con người nọ kia, nhưng họ lại theo dõi rất kỹ, mà nói theo ngôn ngữ đời thường là họ hóng, họ hóng tin tức trên mạng xã hội.”

Anh Nguyễn Lâm Duy cho biết là sau khi dự án xây dựng tượng đài hàng ngàn tỉ đồng tại tỉnh Sơn La bị chỉ trích mạnh mẽ từ mạng xã hội, nhà nước Việt Nam dường như đã dừng lại dự án này.

Theo một số nhà hoạt động xã hội thì để ngăn chận những điều bất lợi cho mình gây ra bởi mạng xã hội, chính quyền Việt nam hiện nay sử dụng biện pháp ngăn chận một cách không thường xuyên, khi có các sự kiện được xem là nhạy cảm chính trị.

Người quản trị trang Facebook mang tên Nhật ký Yêu nước, không muốn nêu danh tánh,  thì nói với chúng tôi rằng việc ngăn chận mạng xã hội chỉ tạo điều kiện cho người sử dụng Việt Nam ngày càng thành thạo hơn trong việc sử dụng các công cụ vượt tường lửa mà thôi.

Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đã “hạ cánh” an toàn?

RFA
2017-08-30
Tin tức vào ngày 30 tháng 8 loan đi, Bộ Công Thương Việt Nam vừa có quyết định bà nguyên Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đủ điều kiện để nghỉ hưu hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2017.

Chấp thuận cho nghỉ hưu

Bà Hồ Thị Kim Thoa được dư luận chú ý đến qua quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách trong vai trò Thứ trưởng Bộ Công thương hồi hạ tuần tháng 1 năm 2017, cùng thời điểm ông Vũ Huy Hoàng nhận quyết định kỷ luật xóa tư cách nguyên Bộ trưởng Công Thương nhiệm kỳ 2011-2016.

Theo kết luận của của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, bà Hồ Thị Kim Thoa đã vi phạm trong việc bổ nhiệm ông Trịnh Xuân Thanh trái quy định, thực hiện không đúng nguyên tắc, quy định ký quyết định bổ nhiệm và điều động một số cán bộ trong nhiệm kỳ 2011-2016.

Ngay sau khi Thủ tướng ban hành quyết định kỷ luật bằng hình thức khiển trách đối với Thứ trưởng Công Thương Hồ Thị Kim Thoa, Văn phòng Chính phủ gửi công văn hỏa tốc đến bốn cơ quan cấp bộ, gồm Tài Chính, Kế Hoạch & Đầu Tư, Công Thương và Thanh tra Chính phủ yêu cầu phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương tiến hành kiểm tra và thanh tra tài sản của bà Kim Thoa và phải báo cáo kết quả lên Thủ tướng trong Quý II năm nay.

…Dần dần trong nội bộ cũng có sự giằng co gì đấy. Thứ hai nữa, họ nhận thấy lý lẽ cũng không vững vàng và cứ nếu làm tới thì sẽ gây ra sự căm phẫn thì người ta phải xử hòa trong lúc tình hình bê bối nhiều thứ quá. Bê bối trong chuyện ông Trịnh Vĩnh Bình, chuyện ông Trịnh Xuân Thanh, chuyện Đồng Tâm, chuyện ở Bộ Y Tế…Cho nên người ta rối bòng bong thì người ta phải làm dịu bớt, cũng là cách ‘rút củi đáy nồi’ thôi
-GS. Tương Lai
Vào cuối tháng 6 vừa qua, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đưa ra kết luận Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa kê khai tài sản gian dối trong thời gian dài, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm. Bên cạnh đó, bà Kim Thoa còn có dấu hiệu vi phạm trong thời gian giữ các chức vụ quan trọng tại Công ty Cổ phần Điện Quang, từ năm 2004 đến năm 2010. Ủy ban Kiểm tra Trung ương khẳng định việc làm sai trái của bà Kim Thoa là nghiêm trọng và phải xem xét hình thức kỷ luật.

Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đã nộp đơn xin thôi việc đến Ban lãnh đạo của Bộ Công Thương vào tối ngày 1 tháng 8, đồng thời cũng tạm nghỉ phép từ ngày này.

Qua việc nộp đơn xin thôi việc của bà Kim Thoa, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, ông Lê Quang Thưởng nói với báo giới trong nước rằng “Không có chuyện Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa xin thôi việc là xong”. Tại cuộc họp báo của Chính phủ chiều ngày 3 tháng 8, Bộ trưởng-Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết theo quy định, trường hợp đang trong giai đoạn xem xét, điều tra thì không được chấp thuận thôi việc.

Ngày 8 tháng 8, văn phòng Trung ương Đảng ra thông báo miễn nhiệm chức vụ Ủy viên Ban cán sự Đảng đối với Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa và bà Kim Thoa bị miễn nhiệm chức thứ trưởng vào ngày 16 tháng 8. Truyền thông quốc nội dẫn lời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc rằng Bộ Công Thương sẽ giao nhiệm vụ mới cho bà Kim Thoa sau khi bà bị cách chức thứ trưởng.

Dư luận đồn đoán vụ việc ông Trịnh Xuân Thanh bị Đức cáo buộc chính quyền Việt Nam đã bắt cóc đem về nước hồi cuối tháng 7 và những diễn tiến liên quan trường hợp của bà Thứ trưởng Công Thương Hồ Thị Kim Thoa có thể sẽ là một vụ “đại án”, mau chóng được lôi ra ánh sáng trong chiến dịch chống tham nhũng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mà người đứng đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam tại phiên họp thứ 12 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tổ chức ở Hà Nội vào sáng ngày 31 tháng 7 tuyên bố rằng “Lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy”.

Hiệu quả của chống tham nhũng?

000_RS7HZ.jpg
Bản tin ông Trịnh Xuân Thanh đầu thú của Đài truyền hình VTV1, phát sóng ngày 4/08/2017. Photo: AFP
Tuy nhiên, thông tin mới nhất cho biết Bộ Công Thương Việt Nam ban hành quyết định đối với nguyên Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa đủ điều kiện để nghỉ hưu hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2017. Tin này làm dấy lên thắc mắc phải chăng đây là dấu hiệu của một “con hổ” đã không sa lưới trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng?

Đài RFA nêu vấn đề với Giáo sư Tương Lai và được Giáo sư chia sẻ quan điểm suy luận cá nhân mà ông cho rằng rất dè dặt để nhận xét về vấn đề này:

“Lúc đầu họ định biến trường hợp của bà Kim Thoa thành vụ án hình sự về chuyện tham nhũng và kê khai tài sản của bà cũng như không cho bà xin thôi việc. Nhưng dần dần trong nội bộ cũng có sự giằng co gì đấy, là một và thứ hai nữa là họ nhận thấy lý lẽ cũng không vững vàng và cứ nếu làm tới thì sẽ gây ra sự căm phẫn thì người ta phải xử hòa trong lúc tình hình bê bối nhiều thứ quá. Bê bối trong chuyện ông Trịnh Vĩnh Bình, chuyện ông Trịnh Xuân Thanh, chuyện Đồng Tâm, chuyện ở Bộ Y Tế…Cho nên người ta rối bòng bong thì người ta phải làm dịu bớt, cũng là cách ‘rút củi đáy nồi’ thôi.”

Vấn đề là hiện nay nếu có luật pháp thì đưa ra đàng hoàng, tội đến đâu xử đến đấy. Ai xà xẻo bao nhiêu, tiền của tước đoạt thì lấy lại nộp cho công quỹ. Những anh có chức có quyền đều nhà cao cửa rộng. Hãy hỏi nhà tiền đâu ra với đồng lương như thế? Tước đoạt lại tất cả bọn lưu manh ăn cướp của dân của nước lâu nay, không từ ai hết
-Ông Nguyễn Khắc Mai
Chúng tôi cũng trao đổi với một số nhà quan sát tình hình Việt Nam và nhận được câu trả lời không chỉ trường hợp mới nhất của nguyên Thứ trưởng Công Thương Hồ Thị Kim Thoa mà trước đó là trường hợp xử lý ông cựu Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng hay những trường hợp của giới chức lãnh đạo khác như nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ, ông Trần Văn Truyền…đều có kết cục giống như nhau là “đâu lại vào đó”, họ vẫn “bình chân như vại” mà dân chúng gọi là “hạ cánh” an toàn.

Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, từng lên tiếng với RFA rằng cần phải xử lý các trường hợp sai phạm, tham nhũng của giới chức lãnh đạo theo quy định của luật pháp. Ông Nguyễn Khắc Mai nói:

“Vấn đề là hiện nay nếu có luật pháp thì đưa ra đàng hoàng, tội đến đâu xử đến đấy. Ai xà xẻo bao nhiêu, tiền của tước đoạt thì lấy lại nộp cho công quỹ. Những anh có chức có quyền đều nhà cao cửa rộng. Hãy hỏi nhà tiền đâu ra với đồng lương như thế? Tước đoạt lại tất cả bọn lưu manh ăn cướp của dân của nước lâu nay, không từ ai hết. Từ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng đến Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Phú Trọng rồi Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc… phải xem xét lại cho rành mạch chứ còn hiện nay là phe nọ đánh phe kia vậy thôi”.

Đài Á Châu Tự Do ghi nhận trong khi đa số dân chúng trong nước tỏ ra không có niềm tin đối với chiến dịch chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề xướng sẽ mang lại hiệu quả tích cực nào qua vụ tiêu cực, tham nhũng xảy ra ở Bộ Công Thương thời ông Vũ Huy Hoàng làm Bộ trưởng, giới nhân sĩ trí thức khẳng định nếu như Đảng Cộng Sản lãnh đạo không xử lý đến nơi đến chốn vụ việc vừa nêu thì rõ ràng Chính phủ Việt Nam chỉ là “rút củi đáy nồi”, chứ không phải củi tươi cũng cháy trong lò đã nóng, theo như lời tuyên bố khẳng khái của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Thế nào SANG, thế nào SẾN?

0
Bauxite Viet Nam

Đinh Phương

Ca sĩ, cựu Thứ trưởng Trung Kiên cực lực chê các bài hát bolero, xếp nó vào thứ mà ở miền Bắc 1954-75 bị chính quyền coi là “nhạc vàng” và ra tay cấm đoán. Người ta nhớ, ông Trung Kiên đã thành danh với dòng nhạc mà hiện giờ gọi là “nhạc đỏ”, nếu không có thành tựu ca hát nhạc đỏ, ca sĩ Trung Kiên đã chẳng thể nào được cất nhắc vào chức quan kể trên.

Nhưng để nói về tác dụng xã hội của dòng nhạc đỏ VN, các ông như ông Trung Kiên nên nghĩ đến ý nghĩa của dòng nhạc đỏ, như đã có người nghĩ về dòng thơ đỏ VN. Một viên tướng tầm cỡ của “thơ đỏ” VN là Chế Lan Viên đã ngẫm lại về nghệ thuật của mình:

Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi! Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong

Nói trắng ra, ca hát của loại ca sĩ như ông Trung Kiên những năm 1960-75 cũng chỉ là cổ võ người ta ra trận và sẵn sàng hy sinh không tiếc mạng mình, cho cái gì và cho những ai, thì nay đã rõ…

Cho nên hãy suy nghĩ cho kỹ: bên trong các danh hiệu mà đám nghệ sĩ thành công như ông Trung Kiên, bên dưới cái ghế quan chức của ông ta – là có máu dân thường đó.

Gần đây, những lúc nghe một vài ông nhạc sĩ lên đài vẫn lấy giọng say sưa sung sướng kể đã viết những bài nhạc trong có những câu… đồi A đồi B xác Mỹ xác Ngụy chất đầy… – ta bỗng cảm thấy đang nghe những tay thợ cả của Thần Chết cao giọng về thành tựu chế ra vũ khí giết người hàng loạt…

Lại Nguyên Ân

Trước hết, để định nghĩa được „nhạc sang“ thì dĩ nhiên người ta phải có loại nhạc khác gọi là „không sang“. Thay vì định nghĩa nhạc sang, chúng ta định nghiã nhạc „không sang“.

Nhạc „không sang“ hiểu ra là nhạc bình dân, còn gọi là nhạc „mùi“, rồi theo định kiến được/bị gọi là nhạc „sến“. „Nhạc sến“ là loại nhạc thường được viết theo thể điệu slow hay Habanera, Bolero, đặc sản của miền Nam, xuất hiện sau năm 1954 từ khi có cái gọi là tân nhạc, là luồng nhạc „ăn theo“ cải lương và dân ca miền Nam, chất phác, thật thà và gần gũi. Nói không ngoa thì nhạc „sến“ là dân ca miền Nam. Còn dân ca miền Bắc là ca trù, hát chầu văn v.v…, và dân ca miền Ttrung thì có các bài hò, lý… v.v….

Người ta đang tách tân nhạc dân ca miền Nam ra và quy thành loại nhạc „sến“ với ý miệt thị. Điều đáng ngạc nhiên là chỉ có tân nhạc dân ca miền Nam, tức „nhạc sến“ mới bị quy chụp là „sến“, còn các loại dân ca khác thì tại sao lại không „sến“ không „sùi“?! Thời trước năm 1975, chữ „nhạc sến“ là một từ để „nựng yêu“ chứ không như ngày nay, kỳ thị và sân si!

Một thực tế nữa là doanh thu „nhạc sến“ chiếm 70% thị trường băng dĩa ca nhạc. Câu hỏi chưa có được câu trả lời cho đàng hoàng là tại sao ca trù, chầu văn, hò, lý, v.v… cũng là dân ca mà còn được nâng đỡ bảo tồn, được ghép chung vào với loại „nhạc sang“, trong khi người ta chỉ nhắm vào „nhạc sến“ để miệt thị vả giới hạn? Phải chăng „nhạc sến“ không phải là văn hoá của người Việt? Có phải vì sức hút của nó đối với quần chúng làm „ngứa mắt“ những ai đó?

Một điều chắc chắn là cái đầu tiên mà các nhạc sĩ phải định hình khi sáng tác một bài hát mới đó chính là thể điệu. Và cũng có thể khẳng định rằng các nhạc sĩ viết „nhạc sến“ đã không tự chọn thể điệu bolero (hoặc habanera, slow) cho loại nhạc này, mà do họ nắm bắt được cảm xúc của đa số (70%) khán thính giả hướng về những loại thể điệu này nên họ đã dựa theo đó mà sáng tác. Còn nếu bảo 70% dân tôi „sến“ và „ngu“ thì chúng tôi cam chịu.

Dù không được khuyến khích – kể cả bị cấm đoán – thì „nhạc sến“ đã và đang đi đến tận cùng ngõ nghách của quê hương sứ xở, từ Nam ra Bắc, từ Đông sang Tây, trong khi các loại dân ca khác cũng chỉ quanh quẩn trong vùng miền của mình, còn được bộ này bộ kia bảo trợ. Để tự sướng chăng?

Người ta cho rằng „nhạc sến“ uỷ mị. Thực chất mà nói rằng tình yêu thì đẹp nhưng con người càng yêu nhiều càng yếu đuối nhiều, và nhạc sến cũng chỉ thể hiện đúng tâm lý tình cảm ở mọi mặt một cách bộc trực và chân thật: „Hồn lỡ sa vào đôi mắt em…“, hoặc „Hẹn chiều nay mà sao không thấy em…“, hoặc „Năm 17 tuổi em đi lấy chồng…“, hoặc „Đôi khi trộm nhìn em, xem dung nhan đó chứ bây giờ ra sao…“, v.v…

Và nhiều bài hát còn thể hiện tính nhân văn trong đó như: „Tiền khô cháy túi có ai hiểu cho…“ hoặc „Sống trên đời này người giàu sang cũng như người nghèo khó…“ hoặc „Đập vỡ cây đàn, giận đời, đập vỡ cây đàn…“, v.v….

Trong khi nhạc sến thánh thiện (chứ không phải vàng vọt). Một ví dụ: „Sến“ mà sang…

Xin xem ở đây:

https://www.youtube.com/watch?v=AxeMwgXxZtk&list=RDAxeMwgXxZtk#t=3194

clip_image002

(Hình 1 – Ca sĩ Bolero Quỳnh Trang)

…thì ngược lại có một dòng nhạc khác ma mị đang tìm cách luồn lách vào đời sống của thế hệ trẻ, núp bóng dưới cái tên „Dân gian đương đại“, còn được cả đài truyền hình cấp nhà nước VTV3 pro cho chương trình biểu diễn. Từ bản chất nó đã không đưa ra được một thông điệp văn hóa văn nghệ khả dĩ nào, trái lại còn làm cho giới trẻ yếu bóng vía không những mất phương hướng, bị trụy lạc, mà còn nuôi cấy sự ma mãnh và ác tính vào con người:

Xin xem ở đây (và xin tự bình phẩm):

https://www.youtube.com/watch?v=3Kw5fZjIAvY&sns=fb

clip_image004

(Hình 2: Thảm hoạ âm nhạc)

Đây nữa! Mồ chôn một số „Diva“ và „Divo“:

https://www.youtube.com/watch?v=x1yR17AVeVU&sns=fb

clip_image006

(Hình 3: Tùng Dương+Thanh Lam+ Nguyên Thảo: Bài ca con nhện)

Và cũng thật khó hiểu khi một số „người lớn“ có „số má“, là „cây đa, cây đề“ lại tỏ ra muốn giới hạn món ăn tinh thần được ưa thích của ít nhất 70% công dân:

Xin xem ở đây:

https://soha.vn/nsnd-trung-kien-toi-khong-ung-ho-va-nghi-khong-nen-phat-trien-manh-nhac-bolero-20170823094223412.htm

clip_image008

(Hình 4: NSND Trung Kiên: Tôi không ủng hộ và nghĩ không nên phát triển mạnh nhạc Bolero!)

Và cuối cùng, những ai thích „nhạc sến“ thiết nghĩ cứ mạnh dạn thích, không phải ngại ngùng hay tự ti che giấu bởi nó không có ác tính. Cái „Đương đại“ kia mới cần phải che mặt. Bótay.com

Đ.P.

Tác giả gửi BVN

Đọc thêm:

Hai bài viết cách đây 7 năm (đăng BVN ngày 15/8/2010):

Ám ảnh nhạc vàng trong đời tôi

Nguyễn Huệ Chi

clip_image009

Bài viết của Nguyễn Tuấn Ngọc “Yêu nhạc vàng: Máu và nước mắt” tình cờ đến với tôi gần đây làm cho tôi rất đỗi bàng hoàng. Bởi tôi là một kẻ yêu nhạc vàng từ bé. Các chị Táo Hương, Cần Hương con người bác ruột từ Trường Đồng Khánh Huế tản cư về Chi Gia Trang năm 1946 đã đem về cho anh em chúng tôi cả một trời mơ mộng qua rất nhiều bản nhạc mà các chị hát: Thiên Thai, Giọt mưa thu, Chùa Hương, Cô láng giềng, Biệt ly, Đàn chim Việt… và cả những bài hát Hội Hướng đạo mà các chị có tham gia, trong khi trong tôi thuở đó cũng đã đầy ắp âm hưởng thơ mới của Xuân Diệu, Huy Cận, Thái Can, Nguyễn Bính… mà tôi nhập tâm trên giá sách Mộng Thương thư trai từ lúc mới lớn lên.

Suốt trong kháng chiến chống Pháp chúng tôi vẫn hát nhạc vàng trên đường tản cư cùng bố tôi khắp những nơi cơ quan ông đóng. Tôi không thể quên một buổi chiều mùa thu năm 1949, ba bố con đi chơi thị trấn Nam Đàn trở về ngôi nhà mình ở nhờ tại làng Vân Diên, khi qua cái barrage trên con sông đào trong vắt nhìn thấy lướt qua mặt mình là một người trai trẻ có hai công an đi kèm. Tôi còn nhớ như in dáng anh ta mảnh khảnh thư sinh, mặc bộ quần áo tây màu tím gụ, mặt trắng, đôi mắt sáng nhưng buồn rười rượi. Bỗng nhiên khi đi sát thành barrage anh ta vụt chồm người lên nhảy một cái. Và chúng tôi nghe dưới sông một tiếng khô khốc dội lên không phải là tiếng ùm của nước. Ba bố con cùng chạy tới nhìn xuống, kinh hãi thấy dưới sâu kia anh ta nằm duỗi thẳng trên tấm bê tông đúc dài theo mặt nước nối với hai bờ sông đào mà hàng ngày người dân vẫn xuống đấy ngồi giặt giũ quần áo, đầu ràn rụa những máu, chân đang giãy những cái cuối cùng. Một cái gì đắng ngắt ứ lên trong cổ, ba bố con lầm lũi đi về không ai nói với ai một lời. Tối hôm ấy không người nào ngủ được, cái chết như một cái gì bí hiểm lần đầu tiên ám ảnh tôi ghê gớm, và những số phận oan khuất như anh Tịnh ở cơ quan bố tôi, cả nhà bị chết khó hiểu ngay từ đầu cuộc cách mạng tháng Tám mà tôi nghe bố tôi và các chú trong cơ quan thầm thì kể chuyện, lần lượt diễn ra trong óc. Bỗng bố tôi cất tiếng hát, hát đi hát lại chỉ một đoạn:

Qua lá cành
Ánh trăng lan dịu dàng
Ru hồn bao nhớ nhung
Đêm lắng buồn
Tiếng thu như thì thầm
Trong hàng cây trầm mơ
Làn gió lướt tới cuốn đưa hồn ta phiêu diêu theo mây trắng trôi lơ lửng
Ngàn muôn tiếng réo rắt côn trùng như than như van mơ hồ theo gió lan.
Trăng xuống dần
Cỏ cây thêm âm thầm
Đông buồn trong ánh sao
Như chiếu nhìn mắt ta bao lạnh lùng
Lay hồn ta rồi tan…”

Tôi và em tôi nằm im thin thít, cảm được trong tiếng hát của bố có tiếng lòng của chính bố mình tuy không hiểu ông đang nghĩ gì.

Sang năm 1950, một trận bom do Pháp oanh kích Nam Đàn thảm khốc đúng lúc chớm vào hè, địa điểm trường tôi là nơi tuyển lục quân nên cũng là mục tiêu của máy bay Pháp. May chúng tôi đều đã học xong vừa về đến nhà nên cả mấy anh em đều thoát chết trong gang tấc, chỉ phải một ngày nằm bẹp dưới hào giao thông và nhịn đói lép ruột. Bố tôi thì thay mặt cơ quan đi dự một phiên tòa cách Nam Đàn 12 cây số từ sớm. Khi nghe tiếng máy bay rồi tiếng bom ông biết Nam Đàn đã bị oanh tạc liền cấp tốc đạp xe về. Ông vượt qua giữa biển lửa, nấp tránh nhiều đợt bom và đạn dum-dum của máy bay làm tung quán xá, nhìn thấy những xác người cháy, những thây người bị hất lên không, cuối cùng về đến nơi chúng tôi ở an toàn làm mấy mẹ con đang khiếp hãi bỗng mừng rỡ như có cứu tinh. Nhưng sau 8 đợt quần thảo, máy bay ngừng, ai nấy trở lên nhà lấm láp phờ phạc, không còn buồn ăn uống. Tối đó sau khi ổn định xong nhân số, gói buộc hết đồ đạc tài liệu, cả cơ quan lại phải thuê đò di chuyển suốt đêm xuống xã Hùng Tiến dưới Rú Ghềnh. Chúng tôi đều mệt rã rời. Vậy mà giữa mặt sông Lam mênh mông, trong màn sương rất dày, ánh trăng vẫn hiện lên chiếu xuống nước thành những vệt lấp lóa. Bố tôi và các chú trong cơ quan ngồi trên mui mấy con thuyền đi sát nhau thốt nhiên cùng cất lên tiếng hát, hát bất kỳ bài nào, toàn là nhạc vàng quen thuộc: “Đêm nay thu sang cùng heo may / Đêm nay sương lam mờ chân mây / Thuyền ai lờ lững trôi theo dòng…”; “Rồi đây khi mùa dứt chiến chinh / Dưới trăng giữa mùa thanh bình… / Đưa chân dồn bước bên cầu… giã từ mấy câu…”; “Ai về thành đô tôi gửi vài lời / Tây hồ mờ xa là nhà tôi đó / Đây chợ Đồng Xuân bên dòng Nhị Hà / Đi học về qua luôn hát vui ca…”; “Giơ tay cương quyết ta ôn lời thề ước / Hy sinh ta quyết mong báo đền ơn nước / Dù thân này tan tành giữa sa trường cũng cam / Nguyện trung thành với sơn hà nước Nam”… Tiếng hát rạo rực như muốn giãi bày những cảm xúc buồn vui xen lẫn đang trào dâng của hơn chục con người hòa vào nhau, âm vang cả mặt sông khiến cho ấn tượng về một cuộc ra đi sau một ngày bom đạn chết chóc găm chặt vào tâm hồn tuổi trẻ mấy anh em tôi không thể nào quên.

Năm 1951 tôi ở trọ tại xã Hùng Tiến để học trung học ở Trường Tân Dân Nam Đàn. Là một học sinh giỏi, quanh tôi có rất nhiều bạn, nhiều nhất là các bạn nữ đồng tuổi mà tôi chỉ gọi tên hoặc hơn tuổi thì gọi bằng chị. Các bạn và các chị thường đến dạy cho tôi hát, tôi nhớ nhất là chị Diệu Khanh có giọng hát rất hay. Khi lớp học kết thúc, nhà trường cho đốt lửa trại suốt đêm. Rồi gần sáng chúng tôi bịn rịn chia tay. Trước lúc tôi quay về Hà Tĩnh không bao giờ trở lại, nhóm bạn nữ tập hợp nơi tôi trọ, tôi và Diệu Khanh cùng hát với nhau bài Nụ cười sơn cước, nước mắt thầm chảy trong lòng: “Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi / mây mờ buông xuống núi đồi / và trong lòng mưa hơn ở ngoài trời…”.

Đến khi ra Hà Nội học Trường đại học Tổng hợp (1956), ở trọ tại xóm Thanh Nhàn Ô Đống Mác, bắt đầu biết yêu, tôi vẫn thường được nghe qua hàng rào dâm bụt giọng ngân rất vang của cô bạn hàng xóm mà mình thầm nhớ và hình như cũng nhớ trộm mình nhưng không ai chịu thổ lộ, hát bài Ngậm ngùi do Phạm Duy phổ nhạc thơ Huy Cận: “Sợi buồn con nhện giăng mau / Em ơi cứ ngủ anh hầu quạt đây…

Rồi về Viện Văn học tôi lại vẫn hát nhạc vàng trong khi bạn bè tôi ở Viện hát các bài hát Nga du dương và tất nhiên tôi cũng rất thích các bài đó, nhất là trong tốp hát có người yêu của tôi. Tôi hát mà các vị lớn tuổi vẫn nghe, vui vẻ nghe, không ai tỏ ý ngăn cản cả.

Cuối năm 1968 trong đêm bế mạc Lớp đại học Hán học tại nơi sơ tán, tốp ca của chúng tôi lên trình diễn bài “Chỉ còn đêm nay đôi ta sẽ chia tay / Đường ven lối vắng sánh bước tay cầm tay…”. Bài hát vốn nghe từ Đài Sài Gòn, chúng tôi học thuộc và tập cho nhau, chẳng kể không ghi lại được nhạc để hát thật đúng nhịp. Trong tốp ca này có tôi cùng với người tôi yêu – một tình yêu câm lặng tuy cả hai đều biết rõ những gì không nói thành lời.

Cuối những năm 70 lại một tình yêu sét đánh mà tôi không cưỡng được, một tình yêu đã để lại một món nợ lớn trong đời khiến tôi không bao giờ trả hết. Chúng tôi, mấy anh chị em trong Ban văn học Cổ cận thường mở những băng nhạc vàng để nghe chất giọng trầm ấm của Sĩ Phú: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám, khi vừa biết yêu…”; hay tiếng hát lanh lảnh quyến rũ nhưng hơi sến của Giao Linh: “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu ?/ Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu / Kìa rừng chiều âm u rét mướt / Chờ người về vui trong giá buốt người về bơ vơ…”. Nhưng tôi có một bài hát riêng không băng nhạc nào có mà nàng lại rất thích vì mấy chị em trong nhà nàng từng hát từ nhỏ, còn tôi thì nhập tâm ngay từ trước 1945: “Bao tháng ngày xa vắng trôi còn đây nếp trường xưa / Xa vắng càng thiết tha mong bên mấy khung song thưa / Say ngắm từng gian lớp xinh lòng xao xuyến tình thơ / Bao tình thơ ngây những lúc vui chơi cùng ngồi quanh bóng mát cùng reo cười / Cây bàng xưa đây lá tốt xanh tươi / Trạnh lòng ai nhớ tiếc khôn nguôi / Trông khắp trường thấy khác xa từ hiên trước tường sau / Nay biết tìm bóng ai kia trong trí tôi in sâu / Ngao ngán thời gian khác xưa ngày nay biết tìm đâu…”.

Vậy là trên cả chặng đường dài của cuộc đời tôi, dù sống giữa miền Bắc cách mạng, mọi tình cảm lãng mạn bị triệt tiêu tận gốc, không hiểu sao nhạc vàng vẫn tự do theo tôi trên suốt mọi hành trình. Không chỉ có tôi mà anh tôi, Từ Chi, cũng vậy. Hồi trẻ anh ấy hát rất hay, đã từng dạy cho lũ trẻ chúng tôi ở Mộng Thương thư trai vào khoảng năm 1952 nhiều bài hát vàng anh đem từ mặt trận về khiến chúng tôi mê đắm: “Mời anh vệ quốc dừng chân bên quán / Từ miền chiến chinh bụi đường nhuốm tấm áo nâu…

Đến năm 1977, lúc đó nhạc vàng vẫn bị cấm rất ngặt, một hôm anh đến nhà tôi, lôi từ trong túi ra một băng cassette bảo tôi mở cho anh nghe. Thì ra một băng nhạc tiền chiến của miền Nam, nghe đi nghe lại có đến hàng trăm lần nên âm thanh đã rão hết. Nhưng tôn trọng anh tôi vẫn ngồi cùng anh để anh say sưa đắm chìm vào mộng tưởng, trong khi tôi có hai băng Sơn ca giọng hát Khánh Ly và Lệ Thu trong vắt, đêm đêm vẫn cùng vài bạn ở Viện như Phúc, Huấn cùng mở ra nghe mê mệt, vậy mà không dám đem ra trình anh, sợ anh cụt hứng với băng nhạc cũ kỹ của mình. Anh nói với tôi: “Nhạc vàng là musique d’Or, không phải musique jaune như bọn Maoiste nói bậy. Chính bọn ấy truyền tư tưởng này sang ta khoảng năm 1953 làm cho ông Lành lên án nhạc vàng và từ đấy không ai dám hát nữa” (một người anh vợ của tôi gần đây cũng nói với tôi những điều hệt như vậy).

Đọc bài viết của Nguyễn Tuấn Ngọc tôi cứ tự hỏi: Không hiểu sao tôi lại không rơi vào tấn thảm kịch mà cùng một thời gian tôi đang hồn nhiên hát hoặc nghe hát nhạc vàng ở Viện thì các anh Nguyễn Thắng Toán, Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Văn Lộc cũng hát và đã phải hứng chịu những đòn trừng phạt cay đắng? Ví thử chỉ một tình cờ nào đó thôi khiến tôi rơi vào cảnh ngộ các anh thi biết đâu sau mấy năm đi tù tôi cũng đã bỏ thân bên vệ đường không khác gì anh Toán – một cái chết tức tưởi chỉ vì một niềm đam mê không cưỡng được nó là cái quyền được bộc lộ thế giới sâu kín bên trong, một thứ đam mê không hạ thấp con người xuống mà nâng tâm hồn con người lên, có sức thanh lọc cho người ta trong trẻo hơn, giàu có hơn. Mà đam mê là một cái gì gắn với tạng mỗi người, cũng do từ truyền thống gia đình để lại, tù đày làm sao thay đổi được thứ thiên tính ấy? Cứ nghĩ thế lại thấy số phận mình còn may mắn và trên đời này, giữa cái xã hội đầy đủ nhân quyền như ông Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng nói, thì ra vẫn có nhiều oan trái đến lạ lùng.

Nhưng suy xét cho hết lẽ, tôi càng thấy biết ơn một môi trường như Viện Văn học mà tôi được sống ngày ấy (những năm 60-80 thế kỷ trước), một môi trường thật hiếm có, không hề xét nét khắt khe quyền tự do cá nhân của mỗi con người, miễn anh là người làm việc chuyên môn hết mình. Chúng tôi được quyền đọc và tự do trao đổi về các tác giả và tác phẩm bị Ban Tuyên giáo cấm lúc bấy giờ, chẳng hạn như Aimatov là một một nhà văn Kyrgyzstan rất hấp dẫn với tuổi trẻ nhưng báo chí được lệnh lên tiếng phê phán nặng nề và cấm đọc. Chúng tôi thảo luận Aimatov đến mấy ngày, tranh luận cả với vị Chi ủy viên là ông Hoàng Phê được cử đến tham dự và ông cũng chỉ đưa ra một vài gợi ý chứ không hề ép chúng tôi phải nghe theo luận điểm của ông. Có lẽ dưới con mắt trải đời và giàu lòng nhân ái của các vị lãnh đạo Viện có tri thức rất uyên bác thuở đó là Đặng Thai Mai và Hoài Thanh, những người đầy kinh nghiệm trong việc xây dựng nhân cách lớp trẻ để họ trở thành những người có bản lĩnh học vấn và tư tưởng, chúng tôi đã có được cái may mắn không phải làm một loại “cây thế” giam chân trong chậu cảnh và chịu uốn tỉa rất nghiêm khắc, trái lại ngay từ đầu đã được dạn dày sương gió, được dành một mép lề phóng khoáng cho khoảng trời của những buồn vui, đau khổ riêng mình, và cho cá tính của mình dễ dàng trỗi dậy. Cũng vì thế, thế hệ chúng tôi không những được các vị chọn thầy chọn thợ đào tạo đến nơi đến chốn (nào Pháp ngữ, nào Hán học, nào lý thuyết và phương pháp văn học Tây Âu… ai học không nên thì người ấy chịu) mà nhờ được bảo lưu thiên tính, trong các biến động xã hội về sau, trừ một đôi trường hợp cá biệt, không thấy ai chịu “đánh mất mình”.

Tiếc thay, trong cơn đại hồng thủy của những “thoái trào” không thể cưỡng từ vài thập kỷ lại nay, đời sống tinh thần của ngành khoa học xã hội nói chung cũng như học phong của một Viện Văn học nói riêng, với không khí phóng khoáng và truyền thống khoa học nghiêm cẩn thuở xưa hình như đang bị hụt hẫng. Giới hạn của tự do tư tưởng đang bị thu hẹp lại và cách nghĩ giáo điều, nói theo một kiểu, trở lại thịnh hành. Có phải tôi đã quá già nua để trở nên lẩn thẩn chăng? Có phải đến một tuổi nào đấy người ta chỉ biết quay lại đằng sau với muôn vàn mặc cảm tiếc nuối mà quên mất ánh dương vẫn bừng lên phía trước theo cái lẽ tre già thì măng mọc? Thôi thì hãy cứ coi là như vậy.

NHC

Yêu nhạc vàng: Máu và nước mắt

Nguyễn Tuấn Ngọc

Với nhiều người Hà Nội, ‘vụ án Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử về tội truyền bá văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng và chống lại các chính sách pháp luật của nhà nước’, họ vẫn chưa quên được.

Người đàn ông Nguyễn Văn Lộc năm xưa trong vụ án này bây giờ là chủ quán Lộc Vàng tại ven đường Hồ Tây (Hà Nội).

Hồi đó anh Lộc và những người bạn vì quá mê nhạc tiền chiến nên đã thành lập nhóm nhạc để tụ tập hát nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Đặng Thế Phong,… và các nhạc sỹ miền Nam như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng…

Ngày 27/3/1968, nhóm nhạc anh bị bắt và tạm giam ở Hỏa Lò 3 năm. Vào các ngày 6,7,8 tháng 1 năm 1971 Tòa án nhân dân Hà Nội mở phiên tòa xét xử gồm 7 thành viên. Tòa tuyên án Toán ‘xồm’ 15 năm tù, Nguyễn Văn Đắc 12 năm tù, anh Lộc 10 năm tù… sau khi Hiệp định Paris được ký kết, anh Lộc được giảm án xuống còn 8 năm tù. Năm 1976 anh ra tù.

Anh Lộc thương nhất là anh Toán ‘xồm’ ra tù, mất hết tất cả, không nơi nương tựa, sống nhờ cậy bàn bè và sau đó anh nằm chết ở vệ đường vào năm 1994.

clip_image010

Anh Lộc châm thuốc cho anh Phan Thắng Toán (Toán ‘xồm’) trước khi anh Toán mất. (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)

Ra tù anh Lộc đi làm phụ hồ, nhưng tình yêu nhạc vàng, nhạc tiền chiến không hề nguội lạnh.

Anh quyết định mở quán Lộc vàng để hát dòng nhạc một thời được coi là ‘phản động’, nhưng anh coi đó là những tác phẩm quý hơn vàng. Bây giờ quán luôn đông khách và hằng đêm 3, 5, 7 dòng nhạc này vẫn cất vang với giọng hát đã đi qua âm nhạc Việt Nam với biết bao khổ đau. Máu và nước mắt.

clip_image011

Anh Lộc tại quán Lộc Vàng, nhớ lại một thời khổ đau của mình.

Khi nhắc đến người vợ mình, anh Lộc đã khóc. Người vợ đã mất vào năm 2002 và để lại cho anh 2 đứa con tiếp tục theo nghiệp âm nhạc. Người vợ đã yêu anh trước khi anh bị bắt và chờ đợi anh trong 8 năm ngồi tù để cưới anh. Anh Lộc nói anh phải đi vào Quy Nhơn để làm thuê kiếm tiền về cưới vợ. Anh nói không bao giờ anh gặp lại được một người phụ nữ như thế: hy sinh cả cuộc đời cho một người đàn ông như anh. Anh coi vợ anh là ‘người hùng’.

Vợ anh luôn thích anh hát bài ‘Niệm khúc cuối’ của Ngô Thụy Miên, và bây giờ anh không thể hát được bài hát đó nữa, vì khi anh cất lên thì anh lại vỡ òa khóc nức nở.

clip_image012

Báo Hà Nội ngày 12/1/1971 đưa tin ‘Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử về tội: truyền bá văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng và chống lại các chính sách pháp luật của nhà nước’

Tôi chưa nghe người nào hát nhạc phẩm ‘Gửi người em gái’ của Đoàn Chuẩn – Từ Linh hay bằng anh. Một giọng hát quá trữ tình và sâu lắng. Anh đã hát đúng bản gốc của tác phẩm này, vì anh cho biết nhạc phẩm đang được thu âm và hát lại bây giờ đã bị thay lời quá nhiều, nhất cả khi các ca sỹ hải ngoại hát.

Hàng ngày, người đàn ông này vẫn hát lại những ca khúc cũ của một dòng nhạc đã đi qua bầu trời văn nghệ Việt Nam với biết bao trầm luân. Nó cũng giống như số phận của anh Lộc khi trót mang kiếp cầm ca.

Tôi tự hỏi trong đám văn nghệ tào lao và khoe mẽ trên truyền thông hôm nay, có mấy ai có được phẩm giá và đam mê âm nhạc như anh Lộc?

(Người Việt / blog Face Book Nguyễn Tuấn Ngọc)

Ba Sàm xin mời bà con thưởng thức tuyệt phẩm “Niệm khúc cuối” của Ngô Thụy Miên (https://anhbasam.com/)

Thư Hoàng Lại Giang gởi ông Nguyễn Phú Trọng

0
Bauxit Viet Nam

Trong bài thơ Bến sông, thi hào Đỗ Phủ đời Đường có viết:

Nhân sinh thất thập cổ lai hy.

Có nghĩa là người ở tuổi 70 hiếm.

Thi nhân Tản Đà của ta thì nói:

Sống 70 đã mấy người?

Khi tôi tròn 70, các con tôi tổ chức sinh nhật cho tôi – một việc lạ – bởi cả đời tôi có tổ chức sinh nhật bao giờ đâu!

Trong bữa sinh nhật ấy, tôi nói với vợ con tôi:

“Ở tuổi này ông không biết mình lú lẫn đâu. Đôi khi lú lẫn mà cứ nghĩ mình anh minh, sáng suốt, bắt vợ con phải nghe theo… Đấy cũng là căn bệnh của người già, khi tuổi đã thất thập!”.

Mười năm đã qua, tôi vào tuổi 80, vẫn tính cách bề trên, luôn cho mình là đúng, là chân lý, coi chủ nghĩa xã hội là xã hội đẹp đẽ nhất mà loài người hướng tới!

Tôi và ông nay đã ngoài thất thập, thuộc loại người xưa nay hiếm rồi. Sự lú lẫn của tôi dù sao cũng chỉ vợ, con tôi chịu. Còn sự lú lẫn của những người đầy quyền lực như ông thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến sự còn mất của cả dân tộc! Quốc phòng ông nắm, công an ông chui vào, luật pháp ông giữ, ông thay đổi Hiến pháp của cụ Hồ khi ông đưa điều 4 vào Hiến pháp!!! Trong khi giặc Tàu xâm lược Hoàng Sa, Trường Sa bao nhiêu chiến sĩ của ta đã hy sinh ông không cho ai tưởng niệm. Ai tưởng niệm chui, ông cho công an và côn đồ theo dõi để sẵn sàng… đàn áp dã man!

Vì vậy tôi đưa đăng lại bài: “CẢNH GIÁC KHÔNG BAO GIỜ CŨ” để những bậc cao niên mà vẫn còn giữ trọng trách trước vận mệnh của dân tộc trong đó có ông suy ngẫm hãy CẢNH GIÁC với chính tuổi tác của mình, sau là cảnh giác trước những việc trọng đại của dân tộc khi kẻ thù truyền kiếp lại mưu sâu, kế cao, thâm hiểm, gian manh, nói một đằng làm một nẻo!

CẢNH GIÁC KHÔNG BAO GIỜ CŨ

Ngày xưa còn lưu lại chuyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”. Câu chuyện tình đẹp đẽ có một không hai trong lịch sử dân tộc, đã từng để lại tấn bi kịch cho cả một dân tộc:

MẤT NƯỚC!

Thời hiện đại, cái gọi là “Công hàm Phạm Văn Đồng” năm 1958, tưởng ta giúp “bạn” tránh “môi hở răng lạnh”, hóa ra nó lại là chứng tích cho sự đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa “hợp pháp”! Nhưng thời ấy Hoa Kỳ còn là đồng minh tin cậy của Miền Nam Việt Nam. Phải chờ gần 20 năm sau, khi Hiệp định Paris được ký kết, Hoa Kỳ rút ra khỏi vòng tham chiến ở Đông Dương, năm 1974 người Tàu mới mang quân ra quyết lấy cho bằng được Hoàng Sa! Một trận chiến không cân sức, mặc dù tinh thần chiến đấu của hải quân Việt Nam Cộng Hòa là đáng được nhân dân và Tổ quốc Việt Nam tôn vinh (74 chiến binh Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh).

Thế mà có nhà lãnh đạo lại nói: “Hãy yên tâm, Hoàng Sa trong tay các đồng chí Trung Quốc còn hơn là trong tay ngụy quyền tay sai của đế quốc Mỹ!” (Theo nhà báo quân đội lúc bấy giờ, đăng trên mạng Ba Sàm ngày 10/11/2014, nhân 40 năm hải chiến Hoàng Sa).

Sau 40 năm nhìn lại, tôi, vâng chính tôi là người trong cuộc cùng với cánh nhà văn được Đảng trau dồi tinh thần quốc tế vô sản, đã là người có tội với dân tộc, với ông cha một thời xả thân dựng nước và giữ nước!

Sau năm 1975 khi đất nước giải phóng những tưởng nhân dân ta được hưởng trọn vẹn độc lập và hoà bình… Không ai ngờ biên giới Tây Nam lại dậy sóng bởi bè lũ Khmer Đỏ! Ai chống lưng cho Khmer Đỏ? Câu trả lời đã được lịch sử xác nhận: Trung Quốc, người anh em môi răng, người đồng chí tin cậy!!!

Và tháng 2 năm 1979 Trung Quốc chính thức mang quân xâm lược nước ta! Chúng đưa vào cuộc chiến tranh biên giới ở Việt Nam 9 quân đoàn chủ lực, một số sư đoàn bộ binh độc lập, xe tăng là 6 sư, phòng không là 4 sư… (nguồn tin từ Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ) tràn qua 6 tỉnh biên giới phía Bắc: Lạng Sơn – Cao Bằng – Lào Cai – Lai Châu – Quảng Ninh – Hà Tuyên! Không khác gì ông cha chúng trong quá khứ, chúng tàn sát không từ người già, trẻ con, phụ nữ có thai!!! Nhà cửa, ruộng nương chúng đốt phá. Con gái chúng thay nhau hãm hiếp (1). Cho đến nay không có bản cáo trạng nào sâu sắc hơn bản “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi:

Độc ác thay trúc rừng không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi,

Lẽ nào trời đất tha cho,

Ai bảo thần nhân nhịn được

(Bản dịch cụ Bùi Kỷ)

Hậu quả để lại cho chúng ta là hàng nghìn ngôi nhà bị đốt cháy, gần 25.000 binh lính và dân thường hy sinh (theo nhà sử học Gilles Ferier)

Khi chúng ta đặt tinh thần quốc tế vô sản lên trên quyền lợi dân tộc thì đấy chính là lúc chúng ta “gởi trứng cho ác!“.

Năm 1988 chúng đem quân ra chiếm Trường Sa gồm 1/ Bãi đá Gacma, 2/ Bãi đá

Colin, 3/ Bãi đá Xen Đao! 64 chiến sĩ và cán bộ của hải quân ta đã nằm lại với biển đảo trong trận chiến này!

Vết thương này cho đến hôm nay vẫn còn đang rỉ máu. Bao nhiêu người mẹ mất con? Bao nhiêu người vợ mất chồng, phải quần quật dầm mưa dãi nắng cáng đáng cho cả một gia đình, mẹ già, con dại!

Một cuộc chiến tranh không ai hiểu nổi! Bởi nó không hẳn là cuộc chiến cướp nước, cũng không hẳn là cuộc chiến tranh ý thức hệ. Nó là cuộc chiến tranh trả thù – nước lớn trả thù nước nhỏ (đàn em) đang muốn tự chủ.

Đúng là Đặng Tiểu Bình đã dạy cho chúng ta BÀI HỌC nhớ đời, đời nọ nối đời kia.

BÀI HỌC cả tin “cái gọi là đồng chí, cái gọi là “16 chữ vàng”, cái gọi là “4 tốt!” Cả tin dẫn đến mất CẢNH GIÁC để bị động trước một cuộc xâm lăng… dẫn đến những mất mát, hy sinh không đáng có, tạo nên một vết hằn sâu đậm về hai dân tộc vốn có hàng ngàn năm đã từng là kẻ thù của nhau! Kẻ thù truyền kiếp!

Người Việt Nam mình đâu đến nỗi nhẹ dạ, cả tin đến như thế! Chỉ vì ý thức hệ, vì mấy cái chữ vàng, chữ bạc, chữ tốt… mà mất CẢNH GIÁC! Nên mới ra nông nỗi này! Ai đã nhẹ dạ, cả tin? Ai đã tuyên truyền cái tình đồng chí, anh em, môi răng?

Chính những người cộng sản phải trả lời những câu hỏi trên trước lịch sử. Phải chịu tội trước nhân dân!

Gần đây Ukraina với bán đảo Crimê là một bài học đáng để chúng ta suy nghĩ. Đất nước chúng ta từng có vụ “nạn kiều” vào những năm 70 của thế kỷ 20. Lúc ấy giữa ta và Tàu rất căng thẳng. Nhiều người Hoa, dù đã sống lâu đời ở ta cũng được Tàu vận động treo cờ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông, vận động khai mình là người Tàu, mặc dù họ đã chuyển sang quốc tịch Việt Nam từ năm 1956… và vận động người Hoa biểu tình, vận động người Hoa trở về nước. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bàn với nhau cho tàu Trung Quốc cập cảng Sài Gòn chở người Hoa về nước. Lê Đức Thọ điện cho Bí thư Thành ủy TP. HCM Võ Văn Kiệt.

Võ Văn Kiệt trả lời dứt khoát: “Không thể!!!”

– Không được.

Lê Đức Thọ:

– Đây là mệnh lệnh của anh Ba [Lê Duẩn].

Võ Văn Kiệt:

– Nếu đây là mệnh lệnh của anh Ba thì nhờ anh Sáu [Thọ] về báo cáo lại với anh Ba, tôi xin chịu bất kỳ hình thức kỷ luật nào cũng được, nhưng chấp hành mệnh lệnh anh Ba cho tàu Trung Quốc cập cảng Sài Gòn thì tôi không thể…

Dừng lại một lúc, ông tiếp:

– Tôi đã cho rải mìn dày đặc dưới lòng sông rồi. Ngay cả cập cảng Cần Giờ cũng không thể huống hồ cập cảng Sài Gòn…

Thế hệ tôi, trên tôi hiểu sức mạnh siêu quyền lực của Lê Đức Thọ là như thế nào. Nhưng Võ Văn Kiệt đã thẳng thừng… không chấp hành.

Lê Đức Thọ im lặng…

Võ Văn Kiệt tư lự, phân vân.

Lê Đức Thọ sốt ruột:

– Có gì Sáu Dân [Võ Văn Kiệt] cứ nói, tớ nghe.

Võ Văn Kiệt nói:

– Tôi hỏi anh Sáu, nếu cho nó vào đây, rồi nó ở lại, không chịu đi nữa, anh Sáu làm cách nào?

Lúc bấy giờ Lê Đức Thọ như mới tỉnh ra…

Về Hà Nội, Lê Đức Thọ báo cáo lại với Lê Duẩn. Lê Duẩn im lặng nhìn Lê Đức Thọ một lúc rồi nói:

– Sáu Dân có cái lý của nó. Nếu như thằng Tàu vào cảng Sài Gòn, nó ở lại, không

chịu ra, chẳng lẽ ta đánh, ta bắt… nó. Lúc ấy nó lu loa lên… Thế là ta tạo cớ cho nó mang quân sang xâm lược nước ta… (2)

Câu chuyện “CẢNH GIÁC” của Bí thư Thành ủy TP. HCM hồi ấy vẫn là bài học vô giá cho nhiều thế hệ sau này.

Nhưng tôi thấy hình như nhiều nhà lãnh đạo hôm nay ít chú ý đến những bài học vô giá về CẢNH GIÁC của thời cổ đại cũng như thời hiện đại…

Bây giờ ra ngõ… là gặp Tàu. Rất nhiều trường hợp Tàu vào ta bất hợp pháp, nhưng… ta vẫn không dễ đẩy họ ra. Đó là chưa nói nhiều vùng đất đắc địa, liên quan đến an ninh quốc gia cũng đem bán cho họ dưới dạng “thuê” 50 năm, 70 năm!

Họ rào lại và làm gì trong ấy không ai biết, công an ta vẫn không được vào!

Và sâu xa hơn, chúng trở lại thời kỳ “nạn kiều” những năm 70 của thế kỷ 20, hay theo cách “bảo vệ Hoa kiều”… kiểu như Nga bảo vệ dân Nga và dân nói tiếng Nga… ở Crimê! Cũng đừng trách người Việt có thành kiến với Trung Quốc. Hàng ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, dân ta hiểu quá rõ bản chất độc ác, nham hiểm… của giặc phương Bắc.

(Ai chưa tin, hãy xem clip trên trang mạng Ba Sàm 19/3/2014, khi một đất nước độc lập và chủ quyền mà chúng ngang nhiên vác xà beng, gậy gộc đuổi đánh dân một làng ở Thanh Hóa thì rõ).

Vậy mà hôm nay, ngày 26 tháng 8 năm 2017 trên báo Thanh Niên lại đăng bài của Mai Hà: “Đề xuất hợp tác với doanh nghiệp Trung Quốc xây dựng sân bay Long Thãnh”. Cái tin đăng trên báo lề phải như dọn đường cho Trung Quốc, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta vào nắm yết hầu của đất nước ta, còn hơn cả cho chúng đưa tàu vào chở người Hoa về nước thời Võ Văn Kiệt làm Bí thư Thành uỷ TP Hồ Chí Minh.

Mai Hà có phải là nội gián? Còn báo Thanh Niên đưa tin này là có ý đồ gì? Sự thật tôi đã gởi bài Cảnh giác không bao giờ cũ cho tờ báo này, nhưng họ… im hơi lặng tiếng!

Trong công cuộc giải phóng dân tộc, chúng ta đã chứng tỏ đức hy sinh vì dân vì nước một thời, nhưng chúng ta cũng mắc không ít sai lầm. Một trong những sai lầm đó là tội mất CẢNH GIÁC với kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.

Tôi nghĩ (có thể cực đoan) đất đai, biển đảo nào thuộc chủ quyền mình, mình phải đòi lại cho bằng được, đừng đùn đẩy cho thế hệ sau mà mắc tội. Trách nhiệm của những nhà lãnh đạo cộng sản hôm nay không phải là đàn áp, khủng bố nhân dân căm thù giặc Tàu mà là phải đòi lại Hoàng Sa và những đảo ở Trường Sa của ta đã bị quân Tàu dùng sức mạnh đánh cướp!

Không thể lúc nào cũng “Chúng ta có đầy đủ bằng chứng không thể tranh cãi được!!!”. Và cuối cùng đâu vẫn hoàn đấy!

Khi nào chưa đòi lại được thì chúng ta còn phải CẢNH GIÁC. Tốt nhất nên giữ một khoảng cách an toàn với “người bạn, người đồng chí môi răng”, dù có thiệt thòi trước mắt về kinh tế, nhưng giữ được đất và nước, biển và đảo của tiền nhân để lại.

Kết thúc bài này tôi xin trích di chúc của vua Trần Nhân Tông với muôn dân người Việt về việc CẢNH GIÁC với kẻ thù truyền kiếp:

“Các ngươi chớ quên chính nước lớn, mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đằng, làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu dài của ta là họa Trung Hoa. Chớ có coi thường chuyện vụn vặt trên biên ải.

Các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gặm nhấm ta. Họ gặm nhấm đất của ta, lâu dần họ sẽ biến giang sơn của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các ngươi phải nhớ lời ta dặn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu”.

Đã 7 thế kỷ trôi qua, lời căn dặn của Đức vua Trần Nhân Tông vẫn còn nguyên vẹn giá trị như lời của một nhà tiên trị: CẢNH GIÁC để giữ nước không bao giờ thừa.

Và đây là cảnh báo của cố Thủ tướng Anh Winston Churchill: “Một dân tộc mà tránh né chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì rồi dân tộc ấy sẽ phải lãnh đủ cả hai thứ: cả chiến tranh và sự nhục nhã!”.

Vị Thủ tướng Anh đã đọc được nỗi lòng của một người Việt Nam như tôi.

Chúng ta trên thực tế đã không tránh né được chiến tranh – cuộc chiến tranh giữ Hoàng Sa, cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam sau năm 1975, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, cuộc chiến tranh bảo vệ các đảo ở Trường Sa năm 1988!!!

Ngư dân ta đánh cá ở ngư trường truyền thống của ta thì Trung Quốc cho tàu, thuyền của chúng bao vây, đuổi bắt, lấy hết cá, xăng dầu, nước uống và lương thực, hoặc chúng đâm thủng tàu, hoặc chúng kéo tàu ta đi!!!

Vậy mà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo báo chí lề phải hoặc im lặng hoặc nói tàu lạ đâm tàu cá của ta!

Đúng là dân tộc chúng ta đã “ lãnh đủ cả hai: Cả chiến tranh và sự nhục nhã!”. Chính những nhà lãnh đạo cộng sản hôm qua và hôm nay phải chịu trách nhiệm về những cuộc chiến tranh và sự nhục nhã mà cả dân tộc ta phải chịu!

TP. HCM ngày 24/3/2014

Sửa lại ngày 26/8/2017

Hoàng Lại Giang

(1) Theo Bách Khoa toàn thư mở Wikipedia.

(2) Câu chuyện trên tôi trực tiếp nghe cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Võ Văn

Kiệt kể lại tại nhà riêng 16 Tú Xương, TP. HCM.

Nguồn: Văn Việt, 27 & 28-8-2017

Vụ Trịnh Vĩnh Bình: Chính phủ chờ phán quyết của toà quốc tế

Vietnamnet

– Liên quan vụ Trịnh Vĩnh Bình đòi bồi thường 1,25 tỷ USD, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cho biết toà quốc tế đang xử nên Chính phủ đợi phán quyết.

Tại họp báo Chính phủ thường kỳ chiều nay, báo Tuổi trẻ đặt câu hỏi về phản ứng của Chính phủ trước việc ông Trịnh Vĩnh Bình, người Hà Lan gốc Việt kiện đòi bồi thường 1,25 tỷ USD lên toà án quốc tế.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng cho biết, quan điểm của Chính phủ, Thủ tướng là tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch cả với doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hiện vụ việc này Toà án quốc tế đang xem xét.

Trịnh Vĩnh Bình, vụ Trịnh Vĩnh Bình, toà án quốc tế, bộ trưởng Mai Tiến Dũng, Mai Tiến Dũng
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng. Ảnh: Đoàn Bổng

Theo các nguyên tắc về bảo hộ, khi có vấn đề tranh chấp vi phạm thoả thuận của một địa phương nào đó với nhà đầu tư nước ngoài thì họ không kiện địa phương mà kiện Chính phủ.

“Trong vụ này, Toà quốc tế đang xem xét, chúng ta cũng phải đợi thôi. Nhưng quan điểm của Thủ tướng là chúng ta tạo môi trường minh bạch, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư nước ngoài”, Bộ trưởng nói.

Vào đầu thập niên 1990, ông Bình (khi đó đã có quốc tịch Hà Lan) về nước đầu tư vào nhiều dự án tại TP.HCM và một số tỉnh phía Nam, thông qua 2 công ty trong nước.

Sau đó, vào năm 1998, ông bị TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết án tù về tội đưa hối lộ và vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai, bị phạt tiền, đồng thời tịch thu toàn bộ tài sản có tại Việt Nam.

Sau khi rời khỏi Việt Nam, năm 2003, ông Trịnh Vĩnh Bình đã kiện Chính phủ Việt Nam ra toà án quốc tế, đòi bồi thường thiệt hại.

Sau khi hai bên thỏa thuận, ông Bình đã rút đơn kiện khỏi Tòa án Trọng tài quốc tế. Một số công chức Việt Nam có liên quan đến vụ án của ông Bình đã bị truy tố.

Tháng 1/2015, ông Bình tiếp tục đâm đơn kiện lần thứ hai.

Phiên tòa lần 2 diễn ra tại Tòa án Trọng tài quốc tế ở Paris, Pháp từ ngày 21-31/8/2017.

Thúy Hạnh – Thu Hằng

Thơ Dương Tường

0
Văn Việt

Mừng nhà thơ Dương Tường 85 tuổi, Văn Việt trân trọng giới thiệu với bạn đọc chùm thơ do chính tác giả chọn theo đề nghị của Văn Việt. Xin cảm ơn nhà thơ và chúc nhà thơ an khang, bước tiếp trên đường sáng tạo.

Văn Việt

 

 

 

Để ghi trên mộ chí

 

Tôi đứng về phe nước mắt

 

 

Serenade 1

 

Những ngón tay mưa

dương cầm trên mái

 

những ngón tay mưa

kéo dài tai quái

một nỗi nhớ vô hình

nhạt nhòe đường xanh

đêm lập thể

 

Những ngón tay mưa

truồi theo phố lạnh

màu nâu cảm tính

đường parabole tư duy

điệp khúc u hoài

những chuyến tàu đi

 

Những ngón tay mưa

trời sao bạc

tím mộng Schercherazade

đêm ngàn-lẻ-hai

 

ngã tư

cột đèn

ô kính

những ngón tay mưa

xập xòe kỷ niệm

 

em

mười chín

mưa

bụi sao

 

ngả nghiêng trời nào

một chớp mi

thăm thẳm

 

đừng hát nữa em

những ngón tay mưa

những ngón tay mưa…

 

1963

Sinh nhật

 

Tôi hé một con mắt-vú-bò qua kẽ nghiêng phòng hoá-nghiệm-tổng-hợp tím cong cong

ngấn

ngực thời gian

 

Rười rượi xanh mà ai xui e bùng bão tóc

để tôi sai nhịp-tôi-tiếng-tiêu-buồn-thổi-vào-đêm-mộc

nhoa nhoá vườn mưa quầng nâu ánh thở dài

lịm chìm kim tự tháp ái ân

 

Em ơi

Ba mươi hai năm

Ba mươi hai lối chân đưa

lầm lũi

thời gian như một cái nhìn vàng

Tôi vẫn phi-tôi

vẫn lạc lối hoài trong một im lặng trầm

đa giác

 

Cái dằm khổ vẫn mắc trong lìm lịm ba

mươi hai lớp thịt tháng năm

 

Tôi đến em

tôi ái tình từ đầu móng tay

chân sợi tóc

tôi

Lũy thừa yêu

Lũy thừa nhớ

Lũy thừa đau

xin nhập hộ không đăng ký đuôi mắt dài

phố sao em bối rối

 

Tôi vẫn rấm phòng mưa một vài lon hy vọng

chia ra ăn dè từng bữa

 

Bella

Tặng những ai sống làm vợ khắp người ta

 

Em

chấm nhỏ

đường khuya

chợ ái ân

loang lổ

đèn đường

mủ đêm

 

Em đi

môi mọng

đùi mọng

vú ấm

tim trống

đầu trống

Em đi – nhớt đêm

Em đi – mưa xiên

Em đi – trời ngiêng

Em – đời bỏ quên

1963

 

Nôel 2

 

 

Nôel

đèn

môi em

za em

Jeruzalem

pha phem

hang/hem Đức Mẹ

 

Jot

Jot

 

hé he

mùi quen

mà quên

 

Nôel

bụi sáng

bạch lạp ngực rằm

năm nắm

ngực rằm

nem nén

ngực rằm

bạch lạp

Ave

Mariem

 

mười bảy

đồng trinh

hai mươi

đồng trinh

phi lí

đồng trinh

chuông lá khói

chìm

Requiem

mưa nhem

lọ lem

hài em

phi lí

bạch lạp ngực rằm

sao Bethle-em

để

chuông lá khói

chìm

Nôel

Nô-elle

Nô-em

trót quen

thành quen

 

Phố nêm

phoneme

kèm kem

đùi ren

lụa len

phố nêm

mà im

thèm

men

nhá nhem

lối khói

lá khói

Boheme

Boong

Boong

chuông em

lá khói

thèm em

thềm êm

đường đêm

tràn im

khuya thêm

rộng thêm

mùi thêm

buồn thêm

sao em

phi lí

ngực rằm

phi lí

đồng trinh

phi lí

kèm đen

tình đen

tình điên

pòm pem

mưa đêm

cột đèn

chờ em

mõm đêm

Nôel

Nô-elle

Nô-em

Nô-men

No man’s land

N-mô- m–nen x-len

leng beng

lang ben

ma lem

mảiem

X-em x-em

hem em

đồng trinh

Amen

1967

 

Wagner

 

 

Ở đây tất cả đều tủn mủn

chỉ riêng khổ đau là hoành tráng

 

Thôi chào tovaritsh Thế Kỉ

giờ lũ hồng rồi

tôi chẳng còn thì giờ dặn dò cái chậu giặt

 

Kìa con chim xứ rét đã về

ngậm một nhành IM hoá thạch

 

Tôi đi

hành tinh hoang

 

 

NGHE NIBELUNGE

5/11/1969

 

Chợt thu 1

 

 

Một thoáng rợn tên là heo may

Một hương cây tên là kỉ niệm

Một góc phố tên là hò hẹn

Một nỗi nhớ tên là không tên

 

1968

Chợt thu 2

 

Chiều se sẽ hương

Vườn se sẽ sương

Đường se sẽ quạnh

Trời se sẽ lạnh

Người se sẽ buồn

 

1969

 

 

rhapsodie trên một chủ đề trần dần

        – 9 biến tấu –

             

Tôi khóc những chân trời không có người bay

Lại khóc những người bay không có chân trời                                                                                                                  Trần Dần

 

1

1

mở

 

2

mở cửa sổ

nhìn ra

những chân trời

đA phương

đA dẠng

 

3

những chân trời gần   những chân trời xa   những chân trời mờ mịt   những chân trời lung linh   những chân trời vẫy gọi (sao không nói tay trời?)   những chân trời ảo   những chân trời hứa hẹn   những chân trời cạm bẫy   những chân trời hi vọng   những chân trời lừa mị

đâu phải chân trời nào cũng xán lạn …

 

 

4

đâu phải chân trời nào cũng tới tấp những người bay

 

 

5

ờ gió đã đọng lại hóa thạch đáy trầm tích những mộng mơ xa   neo đậu những kí ức côi cút dần mất tăm  tôi khóc những chân trời không có người bay

 

 

6

đường kí ức ngàn-lẻ-một nẻo miên man đâu cũng mê cung tôi đi chân rớm máu tươi những kỉ niệm hoang vu và chới với những hoang tưởng man dại   thậm chí hun hút rợn chiều psychedelic nhầy nhụa đàn bà

 

 

7

mở

những đại dương

trùng trùng

sóng

mồ vĩnh cửu ôm ấp trong lòng sâu vĩnh cửu triệu triệu vong linh    ngư dân    thủy thủ    nạn nhân đắm tàu    thám hiểm gia đi tìm đất mới   hải tặc  thuyền nhân    ôi rong rêu bất tận    cứ thế ngàn vạn năm đại thiên di exode tổng đại thiên di tiếp nối

nước biển xanh bao nhiêu tỉ lệ phần trăm máu?

 

 

8

ai giảng giùm tôi liên quan đường gân lá bồ đề rụng trên vai gày Phật Tổ  Như Lai với gập ghềnh Đồi Sọ Golgotha Chúa Jêxu nhục hình đinh câu rút

đường tràn mang án sống tôi bụi thơ và tự chẩn bệnh cho mình    có lẽ tôi đau ở…

                       

mỗi người là một vụ án

                  mỗi người chôn-

                                                sống

                                                        một chân mây?[1]

 

ờ tôi đau ở…

                        những chỗ ai cũng nhìn thấy những chỗ cả nước tôi đau    những

                     vết thương từ nhiều thập kỉ chiến tranh   đâu cũng đài liệt sĩ

ờ tôi đau ở…

                        những chỗ không mấy ai nhìn thấy      những bản thảo en soufffrance

những dự án bay nằm đáy hộc tủ

những mộng mơ ngày một teo tắt lại

ôi thả xuống biển thông điệp vô vọng une bouteille à la mer theo dòng hải lưu vô định    biết có bàn tay ân phước nào lượm lên?

bây giờ tôi hát lạc quan đen[2]

 

 

9

tôi vẫn muốn mơ    mở   những chân trời chưa-biết     chăn dắt những chiêm-bao-lúa-con-gái-lên-đòng   dù địa đồ tuệ quyển bao phen trải những mega tsunami và động đất tâm thần ngàn độ richter    du thuộc thế hệ những kẻ lầm lạc ảo tưởng hồn nhiên va tử thương lí tưởng   tôi vẫn như Aragon nhận trọng tội mộng mơ[3]   còn sức còn hơi còn cất giọng khan hát

những ngày mai chưa-hát

những ngày mai sẽ-hat

những ngày mai mỗi người bay đều có chân trời …

 

dương tường

2015-16

[1] Trần Dần

[2] Trần Dần

[3] L.ouis Aragon: Le crime de rêve je consens qu’on l’instaure / Si je rêve c’est đe ce qu’on m’interdit / Je plaiderai coupable il me plait d’avoir tort (Cái trọng tôi mộng mơ tôi thuận tình để người ta chế định nó / Nếu tôi mơ là mơ đến những gì người ta cấm kị / Tôi sẽ nhận tội tôi sung sướng được sai lầm)

PHƯƠNG THỨC CHẾ TÀI CỦA TOÀ ÁN TRỌNG TÀI QUỐC TẾ Ở PARIS – VỤ ÁN ÔNG TRỊNH VĨNH BÌNH THẮNG KIỆN VN…!

NHÌN LẠI VỤ KIỆN CỦA NGƯỜI Ý ÔNG LIBERATI KIỆN VIETNAM ARLINES…

(Vietnam Arlines (VNA) thua kiện và hình thức chế tài của Toà án Roma Ý… Sau 7 năm từ 1,3 triệu €, VNA phải bồi thường lên đến 5,2 triệu €…)

*Vụ việc bắt đầu với một ông người Ý mang tên Liberati kiện Vietnam Arlines (VNA) ra Tòa án Roma ở Ý, yêu cầu VNA trả tiền chi chí phí cho ổng vì VNA đã Ủy quyền cho một Đại lý VNA thuê ổng làm việc.

Đại lý này bị phá sản, ổng đành nắm đầu VNA đòi tiền. Phiên tòa mở ra, tòa triệu tập nhưng Vietnam Arlines cũng không cử người tham dự, theo kiểu “ta chả liên quan”

Sự vắng mặt của bị đơn làm Tòa án Ý nhanh chóng tuyên Liberati thắng kiện, buộc Vietnam Arlines phải thanh toán cho bên nguyên đơn 1,3 triệu euro.

Đứng trước phán quyết này lãnh đạo Vietnam Arlines đánh giá phán quyết ở Tòa án nước Ý dễ gì thi hành được ở Việt Nam khi Vietnam Arlines là “con cưng” của nhà nước, Vietnam Arlines cũng chẳng có tài sản ở Ý thì… “làm gì được nhau”.

Đúng là suốt gần 7 năm sau đó án này không thi hành được, vì ở Ý không có gì để chế tài được VNA. Rồi bỗng một ngày của năm 2002, Luật sư của Liberati phát hiện VNA đang có một tài khoản triệu đô ở nước Pháp, đây là cơ hội ngàn vàng, đảm bảo cho việc thi hành án của VNA. Thi hành ở Ý không được thì nhờ Pháp “thi hành hộ”, đó là cách làm của Luật sư đại diện cho ông Liberati.

Giữa Ý và Pháp đều thuộc khối Liên minh Châu Âu. Đây là một Liên minh gần như nhất thể hóa về chính trị, ngoại giao và tương trợ tư pháp rất chặt chẽ với nhau. Thế là tòa án ở Pháp nhanh chóng ra quyết định phong tỏa tài khoản triệu đô của VNA tại Pháp để đảm bảo thi hành án.

Điều đáng nói trong vụ này, lúc đầu VNA chỉ bị yêu cầu thanh toán là 1,3 triệu euro, nhưng không chịu thi hành ngay, mà đi thuê mấy luật sư để “gỡ” vụ phong tỏa tài sản ở Pháp.

Kết quả sau một thời gian kiện cáo của VNA, gỡ đâu không thấy mà lại thành… “gỡ ghẻ”.

Kết quả cuối cùng là VNA phải thanh toán bồi thường cho ông Liberati 5,2 triệu euro, vì phải thanh toán cho bên nguyên đơn thêm tiền lãi suất của nhiều năm và thanh toán luôn chi phí luật sư cho bên họ, vì VNA là bên thua kiện.(1)

Vụ kiện của người dân với hãng hàng không của Việt nam, với kết quả đã rõ, VietNam Arlines thua trắng.

Bài học cho chế độ độc tài ĐcsVN thì đã có và rõ như ban ngày, khi hội nhập với các quốc gia văn minh trên thế giới, vẫn giữ hành sử như trong nhà nước độc tài. Đã xem thường thẩm quyền và khả năng thi hành bản án của Tòa án quốc gia Ý, hay nói rõ hơn ở Toà án các quốc gia có tự do, dân chủ, nhân quyền ở khắp Thế Giới, và tới đây là Toà án trọng tài Quốc Tế Paris đang sử vụ Trịnh Vĩnh Bình..

HÌNH THỨC CHẾ TÀI CỦA TOÀ ÁN TRỌNG TÀI QUỐC TẾ PARIS KHI SỬ ÔNG BÌNH THẮNG KIỆN

Khi bản án được xét xử theo thủ tục tố tụng được Tòa Trọng tài ở Paris đưa ra, nó sẽ có giá trị thi hành ở hơn 150 quốc gia đã tham gia ký kết Công ước New York 1958 công nhận và thi hành phán quyết của Tòa trọng tài.

Khi Chính Phủ Nhà Nước VN thua kiện, mà Chính phủ không tự nguyện thi hành bản án trả tiền bồi thường theo phán quyết của Tòa, thì luật sư của ông Bình sẽ canh me tiền và tài sản của Chính phủ VN nằm trên lãnh thổ của 150 quốc gia này, và họ có quyền yêu cầu Tòa án ở [150] quốc gia ấy phong tỏa tài sản và nhờ thi hành bản án của Tòa trọng tài.

KẾT QUẢ PHÁN QUYẾT CỦA TOÀ ÁN

Tòa Trọng Tài Quốc Tế, tại 112, đường Kleber, Quận XIV, Paris (ICC Hearing Centre 112, avenue Kléber 75016 Paris) xử vụ kiện tại trụ sở Toà. Số tiền ông Bình đòi chính phủ CSVN bồi thường lên đến 1.25 tỷ USD.

Lúc 5’10 phút chiều ngày 27/8/2027 với hình ảnh phấn khích giơ hai cánh tay lên và IM LẶNG không tiết lộ nội dung xét xử sau khi rời khỏi Tòa Trọng tài Quốc tế tại Paris, dường như cho thấy một chiến thắng cho ông Trịnh Vĩnh Bình.

Tiếp đó tin tức loan truyền trên mạng Tòa Án Quốc Tế đã phán quyết ông Trịnh Vĩnh Bình thắng cuộc trong ngày 25/8/2017 với hơn 700 triệu đô và đòi nhà nước CSVN phải trả lại tất cả cơ sở của ông TVB tại Việt Nam. Phía CSVN đồng thời phải chịu hết chi phí cho Tòa Án Quốc Tế.

THỦ TỤC PHÁP LÝ SAU PHIÊN TOÀ

*Trong vòng 1 tháng, ông Trịnh Vĩnh Bình và luật sư sẽ nhận được thư của tòa án gởi kết quả phán quyết chính thức tới nhà. Trong phán quyết, tòa sẽ cho phép ông Bình công khai nói những chuyện gì, và những chi tiết nào ông Bình không được tiết lộ công khai, hoặc viết thành sách, truyện để phổ biến…

Kế đó, luật sư của Trịnh Vĩnh Bình sẽ làm các thủ tục cần thiết để gởi thư đòi tiền nhà nước Việt Nam, trong thời hạn 60 ngày sẽ phải trả tiền cho ông Bình. Ông Bình có quyền lấy hết số tiền một lần, hay cho nhà nước trả góp hàng tháng có lãi.

Nếu đến ngày ấy mà ông Trịnh Vĩnh Bình không nhận được tiền, luật sư của ông Bình sẽ đưa phán quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế cho các tòa án ở 28 nước Âu Châu có giao thương với VN để họ tống đạt lệnh phong tỏa hay đóng băng tài sản và tài khoản ngân hàng của nhà nước VN tại Âu châu, Mỹ, các nước Á châu…

Theo Trần Hoàng phỏng đoán, luật sư của nhà nước VN sẽ xin trả góp hàng tháng trong 12-24 tháng.

1,25 tỷ đô la hay 27.000 tỷ đồng là quá lớn. Nhà nước VN không cách gì huy động kịp trong vòng 6 tháng.(2)

BÃI NẠI BỎ VỀ KHÔNG CHẤP NHẬN ÁN QUYẾT CỦA TOÀ ÁN QUỐC TẾ – VIỆT NAM SẼ BỊ CHẾ TÀI THEO ĐÚNG BỘ LUẬT CÔNG ƯỚC NEW YORK 1958 MÀ 150 NƯỚC ĐÃ KÝ KẾT TRONG ĐÓ CÓ VIỆT NAM

*Phía Bộ Tư Pháp CSVN bãi nại, không chấp nhận phán quyết, không chịu bồi thường và đòi kéo dài phiên tòa để phía CSVN trưng bằng chứng là số tiền ông Trịnh Vĩnh Bình thất thoát tại VN chỉ có khoảng 3 triệu đô là hết cỡ – như phía VN đã trình bày trong phiên tòa kín 2 ngày 21-22 tháng 8 vừa qua.(3)

Hung Giobay tổng hợp

(1)https://boxitvn.blogspot.com/…/chinh-phu-vn-tu-ong-cua-thang…

(2)https://ttx.vanganh.org/…/trinh-vinh-binh-thang-vu-kien-oi-n…

(3)https://ttx.vanganh.org/…/ong-trinh-vinh-binh-thang-vu-kien-…