Chiều thứ Năm 21/9 vừa qua, tại Đại học U.C. Berkeley, trong lớp Vietnamese 101A: Advanced Vietnamese – Vietnamese Literature [Lớp văn học Việt Nam] do cô Nguyễn Nguyệt Cầm phụ trách có một khách mời đặc biệt là nhà thơ cách-mạng-phản-kháng-chiến-đấu Bùi Minh Quốc đến nói chuyện với sinh viên về những sáng tác của ông.
Đây là lần thứ ba nhà thơ đến Hoa Kỳ, chuyến đi êm đò xuôi mái, vì đã có một lần, vào tháng 3 năm 2018 khi ra sân bay Tân Sơn Nhất để đi Mỹ dự lễ tốt nghiệp và đính hôn của con trai thì ông bị công an chặn lại, cấm xuất cảnh vì lí do an ninh. Lần này ông qua thăm gia đình con trai đang sống ở tiểu bang Washington.
Cô Nguyệt Cầm giới thiệu Bùi Minh Quốc “là nhà thơ cách mạng, lúc nào trong thơ của ông cũng hừng hực lửa, trước cũng như sau năm 1975” và là một thi sĩ có thơ được chuyển thành nhạc:
cuộc đời vẫn đẹp sao
tình yêu vẫn đẹp sao
dù đạn bom man rợ thét gào
dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích…
rất nổi tiếng, mà cô đã thường hát khi tuổi mới 15, 16. Đó là nhạc Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Bùi Minh Quốc.
Ngày xưa đó, cô cũng còn mê những dòng thơ tình của Bùi Minh Quốc:
Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đi lướt qua nhau
Chẳng ngờ đang để mất
Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu…
đến độ “đi ngoài đường cứ nhìn xung quanh để xem mình có vô tình để mất tâm hồn nào mình đã đợi từ lâu không. Nên người ta cứ tưởng tôi là con điên.” Hồi tưởng của cô giảng viên tại một đại học danh tiếng của nước Mỹ đã đem lại cho sinh viên những tiếng cười.
Thi sĩ Bùi Minh Quốc có mái tóc bạc trắng bồng bềnh, như mái tóc của Albert Einstein. Giọng nói rõ và mạch lạc, tôi “tuổi cao tóc bạc da mồi, nhưng mà tâm hồn vẫn xanh”. Dù năm nay ông đã 83 tuổi. Nhắc đến bài thơ “Lên miền Tây”, có câu: “Tuổi xanh ta, xanh mãi như rừng xanh xanh lớp” nhà thơ tự thấy tâm hồn ông đến nay vẫn như thế.
Là thi sĩ, ông dùng thơ để ra tuyên ngôn. Ba năm trước, khi 80 tuổi ông xuất bản tập thơ “Mẹ Việt Nam” và ở trang đầu là tuyên ngôn thơ của ông. Ông cất cao giọng:
Thơ tôi tiếp lửa cho người bị áp bức
Từng ngày từng ngày
Cho đến một ngày
Không còn ai cần đọc thơ tôi…
Và ông mơ đến một ngày trên thế gian này không còn ai bị áp bức, họ không còn đọc thơ của ông nữa, không còn ai cần tiếp lửa nữa.
Câu chuyện chung quanh việc sáng tác bài thơ “Lên miền Tây” được ông kể lại cho sinh viên nghe. Khi đó ông đang học lớp 9 trường Chu Văn An ở ven Hồ Tây, Hà Nội. Trong lớp, ông ngồi bên cửa sổ, một tai nghe nhưng mắt mơ màng nhìn qua khung cửa, bên kia hồ thấy đỉnh núi Ba Vì xa xa, hình dung sau núi kia là Tây Bắc. Ông yêu vùng đất đó, dù chưa đến bao giờ nhưng đã đọc nhiều về Tây Bắc thành ra nằm mơ thấy cuộc lên miền Tây của mình.
Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi
Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng
Ôi, miền Tây, ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng
Mà lúc ra đi, lửa trong lòng vẫn cháy…
Thơ của ông viết vào năm 18 tuổi có lửa hừng hực. Trong bài thơ còn có một câu mà ông cho là định mệnh của đời ông: “Đi chiến đấu là niềm vui bất tận”, mà bây giờ nhìn lại ông cho rằng cả cuộc đời ông là cuộc đời chiến đấu. Ông nói: “Niềm vui của cuộc đời tôi là niềm vui trong chiến đấu. Tình yêu của cuộc đời tôi là tình yêu trong chiến đấu.”
Nhà thơ tiết lộ chút đời riêng. Ông có ba người vợ, ba người vợ kế tiếp chứ không phải ba người vợ song song. Nghe thế sinh viên cười ồ. Ba người bạn đời của ông là ba người bạn chiến đấu, như tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và vợ là Nguyễn Thị Dương Hà, cũng là khách mời đang có mặt trong phòng học, mà ông nhận xét đó cũng là một cặp đôi sánh bước để chiến đấu.
Tiến sĩ Vũ góp ý, nhắc lại câu chuyện mà ông được nghe nhà thơ kể cách đây vài hôm. Bài thơ “Lên miền Tây” khi vừa viết xong Bùi Minh Quốc gửi cho hai tờ báo nhưng không được đăng, sau đó ông gửi cho tạp chí Văn Nghệ mà người phụ trách trang thơ là Xuân Diệu, bố nuôi của Cù Huy Hà Vũ. Một hôm nhà thơ ra tiệm sách thì thấy trang đầu tạp chí có giới thiệu bài “Lên miền Tây, Bùi Minh Quốc”. Sướng quá, ông về xin tiền quà sáng bố mẹ và mua ngay tờ tạp chí. Ít lâu sau nhà thơ được gặp Xuân Diệu, được mời tham dự hội nghị những nhà văn trẻ mà ông là một trong những người trẻ nhất. Theo ông Vũ, Bùi Minh Quốc là: “Con người của lý tưởng cách mạng và lý tưởng thơ. Ông không bao giờ đầu hàng trước chướng ngại, trong nghệ thuật cũng như trong đấu tranh chính trị.”
Bài thơ “Lên miền Tây” của Bùi Minh Quốc đã được đưa vào sách giáo khoa và trong một kỳ thi tốt nghiệp lớp 7, hệ 10 năm, những vần thơ trong bài cũng đã được chọn để học sinh bình giảng.
Nhưng cũng vì bài thơ mà ông bị “vạ miệng” hai lần. Thi sĩ kể, lần đầu bị nhà văn Nguyễn Đình Thi, khi đó cũng là đại biểu quốc hội, đánh, cho rằng ông chưa lên Tây Bắc bao giờ thì biết gì mà làm thơ mơ mộng viễn vông về vùng đất đó. Thế là bài thơ bị đưa ra khỏi sách giáo khoa.
Vạ miệng thứ hai là có nhiều thanh niên vì yêu thích bài thơ mà hăng hái lên miền Tây Bắc khai khoang để rồi không về lại được thành phố, nhiều cô không lấy được chồng. Họ oán trách ông.
Sinh viên trong lớp có nhiều câu hỏi cho nhà thơ. Một nữ sinh viên hỏi vì sao những bài thơ trước năm 1975 của ông theo phong cách cách mạng, sau 1975 đem đến cho ông địa vị, danh vọng và tiền bạc, nhưng có sự kiện nào hay lý do nào đã khiến ông quyết định viết những bài thơ chống lại chính quyền độc tài?
Thi sĩ Bùi Minh Quốc trả lời rằng sau năm 1975 ông dần dần nhận ra những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tức là những người cầm đầu của chế độ độc tài toàn trị đã phản bội toàn bộ cách mạng dân tộc, dân chủ mà ông từng theo đuổi. Tất cả những quyền công dân ghi trong Hiến Pháp họ không thực hiện, chỉ có trên giấy, như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do ứng cử bầu cử đều không có. Trong lãnh vực văn hoá văn nghệ là rõ nhất, tất cả những tiếng nói trái với tai những người lãnh đạo đều bị bịt miệng.
Một sinh viên hỏi về bài thơ ông sáng tác năm 1997 có hai câu “Đà Lạt dậy mùa hoa/ Anh nghiến răng trong phòng thẩm vấn/ Giữa ban ngày mà ngập đêm đen”, có phải câu cuối ông nói đến một tác phẩm của Vũ Thư Hiên?
Nhà thơ xác nhận ông đã mượn tên cuốn hồi ký của Vũ Thư Hiên trong câu thơ đó, nhưng đó không phải là câu cuối.
Bài “Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn” gắn với một sự thật có trong đời của của ông. Khi nghe tin ông bà Hoàng Minh Chính từ Hà Nội vào Sài Gòn, thi sĩ có ghé thăm. Mới gặp ông Chính chừng năm phút thì công an và an ninh đến yêu cầu ông rời khỏi nhà của người con gái của ông Chính. Vài hôm sau, có một người nói là mới từ Pháp về, sau ông mới biết là an ninh, trao cho ông một copi của “Đêm giữa ban ngày”. Ông mang về và khi vừa đến bến xe Đà Lạt thì đã có công an chờ sẵn, khám xét hành lý và nói tác phẩm này là bất hợp pháp. Ông bị đưa về công an thành phố giam ba ngày ba đêm, bị thẩm vấn.
Ông sáng tác nhiều bài thơ trong phòng thẩm vấn, bài “Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn” còn có những câu: “Ôi tổ quốc vào tay quỉ dữ/ Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình.”
Nhà thơ Bùi Minh Quốc bị thẩm vấn liên tục trong mấy tháng trời, cùng với Tiêu Dao Bảo Cự. Ông tiếp tục làm thơ, được bài nào đều đem đọc cho Bảo Cự nghe.
Ông kể trong đợt thẩm vấn ông sáng tác được 30 bài thơ, chép vào giấy pơ-luya gửi cho mấy nhà xuất bản, dù ông biết là họ sẽ không in nhưng là để cho biết là Bùi Minh Quốc có những sáng tác thơ. Ông gửi cho chi nhánh phía Nam của nhà xuất bản Hội Nhà văn do nhà thơ Ý Nhi phụ trách, dùng tên người gửi và địa chỉ vớ vẩn nào đó. Ông cũng gửi cho vài nơi khác, trong đó có tướng Trần Độ nguyên là Trưởng ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương với một thư kèm “mong anh dành thời gian đọc và anh cho nhận xét.” Khi đó ông Độ đã bị đánh rồi, nhà thơ cho biết.
Tập thơ “Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn” không biết bằng cách nào đó đã được phổ biến ở nước ngoài, in ở Pháp. An ninh văn hoá và công an tỉnh Lâm Đồng đến gặp ông, muốn biết làm sao sáng tác của ông lọt ra nước ngoài, tại sao ông làm như thế. Nhà thơ trả lời là chỉ gửi cho mấy nhà xuất bản trong nước, còn làm sao nó lọt ra nước ngoài thì ông không biết, truy tìm là việc của công an.
Thế là ông lại bị quản chế, mà ông gọi là “quản chế trong vòng quản chế” qua lệnh báo miệng, không có văn bản. Ngày hai buổi ông phải lên công an phường viết kiểm điểm về vụ có thơ in ở nước ngoài. Công an bảo viết thì viết, lần nào cũng thế tôi viết mấy chữ lăng nhăng rồi ngồi đọc sách báo, có khi lại làm một bài thơ.
Trên trung ương cũng để ý đến vụ việc. Ông kể một hôm có đại tá an ninh từ Hà Nội vào, xưng là bạn của Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật và nói các anh ấy chê thơ của tôi dở lắm. Tôi nói thơ hay dở thì tuỳ mỗi người. Họ quyết truy cho được là tôi đã gửi tập thơ cho những ai và làm sao lọt ra nước ngoài.
Nghe thi sĩ Bùi Minh Quốc kể lại chuyện bị thẩm vấn, tôi còn nhớ vào thập niên 1990, là người theo dõi tình hình nhân quyền tại Việt Nam tôi biết đến nhiều người có quan điểm bất đồng với các chính sách của nhà nước, hay những người lên tiếng đòi quyền làm người, đòi tự do dân chủ cho quê hương đang bị giam tù hay quản chế như các thầy Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, giáo sư Đoàn Viết Hoạt, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, luật sư Đoàn Thanh Liêm, các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Hà Sĩ Phu.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc khi đó được biết đến qua chuyến đi xuyên Việt với nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và thi sĩ Hữu Loan để gặp gỡ văn nghệ sĩ, vận động cho các quyền tự do phát biểu, tự do báo chí theo như những Nghị quyết của Đảng đưa ra khuyến khích văn nghệ sĩ, nhà báo nói thẳng, nói thật.
Hoạt động của nhà thơ gây được sự chú ý trong nước. Tại hải ngoại có nhóm Thông Luận bên Pháp, tạp chí Thế Kỷ 21 bên Mỹ, là những nơi đã phổ biến nhiều hoạt động, nhiều bài viết của “Nhóm Thân hữu Đà Lạt” gồm một số anh em trong Hội Văn nghệ Lâm Đồng mà thi sĩ Bùi Minh Quốc là chủ tịch. Những năm 1987-88 thi sĩ còn thực hiện tạp chí Văn nghệ Langbian ra được 3 số thì được lệnh từ Bộ Thông Tin là phải đình bản.
Hôm nay nhà thơ nhắc đến chuyện Tổng Bí thư Đỗ Mười mời ông lên gặp, yêu cầu kể lại chuyến đi xuyên Việt cùng với Tiêu Dao Bảo Cự khiến cả hai bị cách chức, bị khai trừ khỏi Đảng. Ông Đỗ Mười ngồi nghe gần hai tiếng đồng hồ rồi nói là sẽ cho ban kiểm tra trung ương có văn bản kết luận gửi cho ông, nhưng cho đến nay thi sĩ cũng chưa nhận được văn bản đó, dù đã gửi thư qua fax hai lần để hỏi.
Tiếp tục buổi nói chuyện, một sinh viên hỏi việc bị quản chế có ảnh hưởng đến việc sáng tác, ông có cảm thấy còn tiếp tục làm thơ được không?
Lại càng tạo cảm xúc làm thơ nhiều hơn, thi sĩ trả lời, rồi đọc bài thơ viết về người vợ, trong không gian đang có công an canh gác trước nhà:
Em ngồi đó, quên cả ngày tàn quên đêm khuya khoắt
Mười ngón tay lan một thế giới dịu hiền
Những búp bê len muôn mầu hồn nhiên ánh mắt
Em lẳng lặng đẩy lùi cơn bão dập đời anh
Gầm rít quanh ta cơn bão phũ phàm
Cuộc vây hãm dằng dai của mắt cú miệng hùm, lưỡi rắn
Em ngồi đó mười ngón tay lan đằm thắm
Một thế giới dịu hiền – thông điệp của hồn em…
Bài thơ lúc đầu ông đặt tên “Thơ tặng vợ hiền” vì vợ ông tên Hiền, mà người cũng hiền. Sau đổi tựa thành “Em ngồi đó”, sáng tác trong khi ông bị quản chế. Đọc thơ xong, thi sĩ cười cười nói: “Mà bảo là nịnh vợ thì cũng được.”
Một câu hỏi khác: Bài thơ “Đất quê ta mênh mông” sao ông lại viết phần 1 trước 1975 và phần 2 sau năm 75.
Thi sĩ trả lời, bài thơ hơi dài ông không nhớ hết, nhưng tóm tắt là hình ảnh bà mẹ ngày trước là những bà mẹ có thực, đào hầm bí mật cho ông núp ngay tại đất Quảng Ngãi. Bây giờ họ là những bà mẹ đi đòi đất đòi nhà, là hình ảnh phổ biến trong đời thực hiện nay. Biết bao bà mẹ đi chầu chực suốt ngày suốt đêm trước những dinh thự đồ sộ của đám quan chức để đòi nhà, đòi đất bị cướp.
Nói về người mẹ của ông, khi một sinh viên hỏi về ký ức, thi sĩ kể rằng năm 1962 ông có bài thơ về mẹ mà số phận bài thơ đó cũng khá kỳ lạ.
Khi làm bài thơ đó xong, ông chép gửi cho người yêu đầu và cũng là vợ sắp cưới. Hai bên đã chuẩn bị cho ngày cưới, nhưng vì những éo le của thời cuộc nên không bao giờ có đám cưới ấy. Ông tưởng bản thảo không còn. Một hôm cùng người em gái ngồi ôn lại kỷ niệm về mẹ thì cô em còn thuộc bài thơ, đọc lại cho ông chép và ông đã đưa vào tập thơ xuất bản nhân dịp ông 80 tuổi.
Rồi có một giảng viên đại học bên Texas muốn dịch thơ của ông để đăng trong các tạp chí tiếng Anh. Qua con trai, ông gửi một số bài thơ tiêu biểu như “Đất quê ta mênh mông”, “Giấc ngủ của nàng tiên dũng sĩ”, “Một dũng sĩ ra đời ở đầu kia chiến hào” cho dịch, nhưng chờ mãi không thấy đăng. Sau anh giảng viên gửi thêm bài “Mẹ” thì họ lại cho đăng bài này trước.
Đầu năm nay con trai báo bài thơ “Mẹ” đã được đăng. Thi sĩ đưa tin vui lên Facebook. Một hôm tự nhiên nhận được nhắn tin từ người yêu đầu, nói bài thơ ấy bản thảo cô còn đang giữ. Nhà thơ Bùi Minh Quốc cho đó là “tính thiêng của thơ rất thiêng” vì đã lưu giữ cái không gian của mối tình đầu suốt từ đó đến bây giờ. Bài thơ đó ông có đề “Kính tặng mẹ của hai chúng ta” là mẹ của tôi và mẹ của cô ấy.
Thi sĩ Bùi Minh Quốc sinh năm 1940 ở Hà Đông. Năm 1967 đi B vào Nam làm phóng viên chiến trường ở Khu Tư. Sau năm 1975 ông cũng có mặt trên chiến trường Campuchia.
Ông sinh hoạt nhiều trong giới văn học nghệ thuật ở các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng và Lâm Đồng. Là người quan tâm đến thời cuộc, ông luôn lên tiếng cho quyền tự do thông tin báo chí, tự do sinh hoạt văn hoá văn nghệ. Ông mạnh mẽ lên tiếng phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền đất nước của Trung Quốc, phản đối sự việc nhà nước im lặng trước những hành động của Bắc Kinh.
Trong buổi nói chuyện tại Đại học Berkeley, nhà thơ khẳng định mình là con người chiến đấu và thơ của ông là thơ chiến đấu. Ông chiến đấu trước năm 1975 và ngày nay ông còn tiếp tục chiến đấu vì gánh nặng sưu thuế đè nặng lên người lao động, vì áp bức vẫn còn.
Thi sĩ Bùi Minh Quốc phát biểu trước sinh viên: “Tôi không có vũ khí nào khác ngoài vũ khí của tiếng nói, của những lời thơ” và từ đầu buổi nói chuyện ông đã liên tưởng suốt cuộc đời chiến đấu của ông với bản Giao hưởng số 5 của Beethoven, là vượt thắng định mệnh, ngẩng đầu mở miệng cất cao tiếng hát dù qua bao đau thương bi thảm, để hy vọng đi tới niềm vui là Giao hưởng số 9, cũng của Beethoven.
[bbc.com/vietnamese 03.10.2023]