Tái khám phá Trật tự trong Thời đại Dân túy
Chuyên mục Quốc gia (Mùa hè 2025)
Một cuộc khủng hoảng bản sắc hiện sinh đang bủa vây cánh hữu Mỹ. Một phong trào chính trị từng thống nhất bởi cam kết về một chính phủ hạn chế, trật tự đạo đức và sự bảo vệ mạnh mẽ các lý tưởng của Mỹ giờ đây dường như đã tan vỡ, mục đích của nó bị che mờ bởi những bất bình của dân túy và sự trôi dạt ý thức hệ. Tính cấp thiết của thời điểm này đòi hỏi phải quay trở lại với những nguyên tắc cơ bản, cùng với việc xem xét lại ý nghĩa của chủ nghĩa bảo thủ và những gì nó muốn đạt được trong một thời đại được đánh dấu bởi sự biến động văn hóa và phân cực chính trị.
Kể từ đầu thế kỷ, một định nghĩa từng rất mạnh mẽ về chủ nghĩa bảo thủ đã dần dần trở thành “bất cứ điều gì không phải là ‘thức tỉnh'”. Sự thay đổi này một phần được thúc đẩy bởi những nỗ lực của Đảng Dân chủ nhằm xóa bỏ lẽ thường như một tà giáo chính trị và đàn áp quyền tự do ngôn luận. Như cánh tả đã nhanh chóng nhận ra, việc từ bỏ giới trung dung ôn hòa đã tạo ra nền tảng dồi dào cho các liên minh chính trị mới bên cánh hữu phát triển và thịnh vượng.
Mặc dù ban đầu khá tinh tế, nhưng hậu quả của việc phong trào bảo thủ chuyển đổi thành phong trào chống thức tỉnh đã dần dần tích tụ. Vào thời điểm Donald Trump đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, nhiều phân tích hậu bầu cử đã định hình chính xác chiến thắng của ông không phải là một thắng lợi của lý tưởng bảo thủ, mà chỉ là sự phủ nhận một Đảng Dân chủ suy đồi và trụy lạc.
Đây không phải lúc nào cũng là cách cánh hữu tự nhận thức về mình ở Mỹ. Chủ nghĩa bảo thủ từng tự hào đón nhận một tầm nhìn tích cực, mang đến cho người dân Mỹ những lựa chọn thay thế rõ ràng cho những quan điểm chính thống thiên tả đang thịnh hành thời bấy giờ. Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, những người bảo thủ không chỉ phản đối việc theo đuổi kết quả bình đẳng một cách viển vông của chính sách hỗ trợ người nghèo, mà còn ủng hộ bình đẳng cơ hội cho tất cả mọi người. Những người bảo thủ không chỉ phản đối việc để chủ nghĩa cộng sản hoành hành; họ còn kiềm chế nó bằng cách mạnh dạn dẫn dắt thế giới tự do. Những người bảo thủ không chỉ chỉ trích chính phủ cồng kềnh; sự ủng hộ của họ đối với thị trường tự do đã mở ra một trong những cuộc bùng nổ kinh tế vĩ đại nhất trong lịch sử. Cốt lõi của chủ nghĩa bảo thủ là tham vọng giúp nước Mỹ thịnh vượng, cùng với mong muốn bảo tồn các thể chế tư nhân – gia đình, nhà thờ, cộng đồng địa phương, v.v. – vốn là nền tảng của một xã hội trật tự.
Nhưng giờ đây, khi cánh tả đã nắm giữ các thể chế lớn và đảo ngược đạo đức truyền thống, chủ nghĩa bảo thủ thường bị giản lược thành sự phản đối đơn thuần. Suy cho cùng, việc hét lên “không!” thật dễ dàng. Và nó cũng mang lại cảm giác dễ chịu. Mặc dù sự phản đối như vậy có thể thu hút đồng minh và thậm chí có thể giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử khi Đảng Cộng hòa mất quyền lực, nhưng nó không thể đóng vai trò là nền tảng đạo đức của một phong trào. Chủ nghĩa bảo thủ không thể được định nghĩa chỉ bằng những gì nó không phải.
Chủ nghĩa bảo thủ không phải là một hệ tư tưởng cứng nhắc hứa hẹn một xã hội lý tưởng; nó là một khuynh hướng – một trạng thái tinh thần dựa trên các nguyên tắc vượt thời gian. Nó thừa nhận bản chất con người như nó vốn có và đã tồn tại qua nhiều thời đại, và chỉ ra một cách tiếp cận riêng biệt để tự quản lý bản thân. Chủ nghĩa bảo thủ đề cao sự tuân thủ một trật tự đạo đức siêu việt, tôn kính truyền thống và tổ tiên, thận trọng trong việc ra quyết định, khiêm nhường trước vị trí của mình trong lịch sử và theo đuổi công lý trong một thế giới sa ngã. Những giá trị hài hòa này làm cho chủ nghĩa bảo thủ trở thành một triết lý trường tồn, hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa tự quản.
Để hiểu những nguyên tắc này và hiểu cách thực hiện chúng trong thế kỷ 21, có lẽ không có cuốn sách hướng dẫn nào tốt hơn cuốn “Nguồn gốc Trật tự Hoa Kỳ” của Russell Kirk, được xuất bản lần đầu tiên cách đây nửa thế kỷ vào năm 1974. Kirk tìm cách xác định những đặc điểm nổi bật của các xã hội năng động nhất phương Tây: Jerusalem, Athens, Rome và London. Bởi vì, như Kirk đã nhận xét, dù chúng ta ở Washington, New York, San Francisco hay trung tâm nước Mỹ, “trật tự mà người Mỹ trải nghiệm đều bắt nguồn từ kinh nghiệm của bốn thành phố cổ kính đó.” Những thành phố này, với di sản cổ xưa và những giá trị trường tồn vẫn còn tồn tại ở Mỹ ngày nay, đã phát triển thịnh vượng bởi vì chúng đã đón nhận một trật tự của cả thể chế lẫn tâm hồn.
Năm mươi năm sau khi công trình mang tính bước ngoặt này được xuất bản, điều quan trọng đối với những người bảo thủ là khám phá lại những hiểu biết sâu sắc trường tồn của Kirk.
LINH HỒN CÓ TRẬT TỰ VÀ CHÍNH TRỊ CÓ TRẬT TỰ
Kirk bắt đầu với Israel cổ đại, đất nước được nhớ đến chủ yếu không phải vì sức mạnh quân sự hay chinh phục lãnh thổ, mà vì đời sống đạo đức và tinh thần có trật tự. Ông lập luận rằng “cho đến khi con người gắn kết với nhau bởi một đức tin chung và chia sẻ những nguyên tắc đạo đức nhất định, họ vẫn còn lợi dụng lẫn nhau.”
Không giống như các nước láng giềng, Israel đã hợp nhất một tâm hồn có trật tự dưới chế độ độc thần với một chính thể có trật tự dưới luật pháp thần thánh. “Các tín điều khác của thế giới cổ đại,” Kirk khẳng định, “giờ đã là tro bụi, nhưng Mười Điều Răn của Moses và sự hiểu biết về sự tồn tại của con người dưới Chúa mà Moses truyền đạt cho dân chúng vẫn là một sức mạnh sống động, là nguồn gốc của trật tự.” Ông lưu ý rằng di sản này vẫn còn vang vọng trong xã hội Mỹ, nơi trật tự đạo đức của Sinai, dưới cả hình thức Kitô giáo và Do Thái giáo, là nền tảng cho cả đời sống công cộng và riêng tư.
Tại Athens, Kirk ghi nhận những cải cách của Solon đã nâng tầm thành phố này lên trên các thành phố khác. Trong khi các thành bang Hy Lạp khác chìm trong nội chiến và hỗn loạn, Solon đã đưa ra các nguyên tắc kiểm soát và cân bằng, chính quyền hỗn hợp và chuyển giao quyền lực một cách hòa bình – tất cả vẫn là dấu ấn đặc trưng của chính phủ Mỹ. Sự kiềm chế của Solon, như Kirk giải thích, đã ngăn chặn Athens rơi vào chế độ chuyên chế. “Được giao phó quyền lực như vậy”, ông nhận xét, “gần như bất kỳ người Hy Lạp nào khác cũng sẽ tự biến mình thành bạo chúa. Tuy nhiên, Solon, bằng cách từ chối cơ hội nắm quyền cai trị tuyệt đối và khối tài sản khổng lồ, đã hàn gắn xã hội Athens.” Là một trong những người sáng lập và bảo vệ nền dân chủ Athens, những hoạt động cao quý của Solon đã đặt nền móng cho sự thịnh vượng của con người qua hàng thiên niên kỷ. Tấm gương của ông nhấn mạnh việc ưu tiên trật tự hơn hiệu quả mang lại sự thịnh vượng lâu dài.
Nếu Solon mang đến cho những người sáng lập nước Mỹ một tầm nhìn về nền dân chủ chức năng, thì Rome, dưới ảnh hưởng của Cicero, đã mang đến cho họ một tầm nhìn về trật tự pháp lý. Kirk giải thích: “Chính nhờ Cicero mà học thuyết về quy luật tự nhiên đã được trình bày rõ ràng trong thời đại La Mã, và học thuyết pháp lý là thiết yếu đối với những người sáng lập nền Cộng hòa Hoa Kỳ.” Ở đỉnh cao quyền lực, Cộng hòa La Mã là một cường quốc pháp lý, với sự kiên trì theo đuổi trật tự đã thúc đẩy sự vĩ đại của nó. Tuy nhiên, như Thánh Augustine đã than thở, Rome cuối cùng đã sụp đổ “vì thiếu trật tự trong tâm hồn”.
Cuối cùng, Kirk lập luận, London đại diện cho đỉnh cao của những truyền thống trước đó, tinh chỉnh và thể chế hóa chúng thành luật chung và chính quyền lập hiến của Anh, những yếu tố trực tiếp định hình trật tự pháp lý và chính trị của nước Mỹ. Từ Hiến chương Magna Carta đến Cách mạng Vinh quang, London là lò luyện kim mà các nguyên tắc của chính quyền đại diện – pháp quyền và quyền cá nhân – đã được hình thành. Kirk nhấn mạnh rằng đây không phải là những lý tưởng trừu tượng, mà là những thực tế sống động, được thử thách và tôi luyện qua hàng thế kỷ đấu tranh và đổ máu. Mặc dù không được viết thành văn, truyền thống hiến pháp Anh vẫn cung cấp cho những người sáng lập nước Mỹ một mô hình quản trị cân bằng giữa quyền lực và tự do. Nếu không có di sản của London, Hoa Kỳ sẽ không được thừa hưởng những thể chế đã bảo tồn các quyền tự do của mình trong gần hai thế kỷ rưỡi.
Như Kirk đã nói rõ, mặc dù một chính thể trật tự tốt là điều cần thiết, nhưng nó không thể tồn tại nếu không có một trật tự đạo đức và tinh thần duy trì nó. Một nền văn minh không được duy trì bởi chính trị, mà bởi người dân của nó. Do đó, một chính thể trật tự phải gắn liền với một tâm hồn trật tự; hay nói đúng hơn, là sự tràn ngập của những tâm hồn trật tự. Sự kết hợp tuyệt vời giữa những tâm hồn trật tự và chính quyền này chính là tình trạng đã khai sinh ra Hiến pháp Hoa Kỳ, một phần không nhỏ nhờ vào vai trò của tôn giáo trong quá trình lập quốc. Kirk đã tóm tắt thành công của nước Mỹ như sau:
[C]hững người soạn thảo Hiến pháp đã mặc nhiên cho rằng một trật tự đạo đức, được xây dựng trên niềm tin tôn giáo, sẽ hỗ trợ và song hành với trật tự chính trị. Hiến pháp đã và đang hoàn toàn là một công cụ cho chính quyền thực tiễn – chứ không phải là một luận thuyết triết học. Tuy nhiên, chính quyền thực tiễn ở Hoa Kỳ, và ở mọi quốc gia khác, chỉ có thể tồn tại khi hầu hết người dân ở quốc gia đó chấp nhận sự tồn tại của một trật tự đạo đức nào đó, mà theo đó họ điều chỉnh hành vi của mình – trật tự của tâm hồn.
Vị tổng thống thứ hai của đất nước chúng ta, John Adams, cũng nói tương tự, nhưng ngắn gọn hơn: Hiến pháp của chúng ta, ông tuyên bố, “chỉ được lập ra cho một dân tộc có đạo đức và tôn giáo. Nó hoàn toàn không phù hợp với chính quyền của bất kỳ quốc gia nào khác.”
TẦM NHÌN KIRKIAN CHO CHỦ NGHĨA BẢO THỦ THẾ KỶ 21
Kirk kết thúc cuốn “Cội Nguồn Trật Tự Hoa Kỳ” với niềm hy vọng, khẳng định rằng bất chấp thời thế thay đổi, các nguyên tắc về trật tự đạo đức và chính trị vẫn luôn quan trọng. Ông nhắc nhở chúng ta rằng mặc dù “hoàn cảnh đã thay đổi đáng kể… nhưng luật pháp và phong tục vẫn trường tồn; và như Tocqueville đã biết, nền dân chủ Hoa Kỳ là sự sáng tạo của luật pháp và (ở mức độ lớn hơn) của các thói quen đạo đức.”
Nhưng phong trào bảo thủ phải nhớ về cội nguồn của mình để thực hiện lời hứa này. Nó phải vượt qua động lực phản động chỉ đơn thuần là phản đối chủ nghĩa tiến bộ và thay vào đó, lấy lại cam kết với “những điều vĩnh cửu”: nền tảng đạo đức và văn hóa của một xã hội tự do.
Đáng buồn thay, đối với hầu hết những người theo chủ nghĩa dân túy, trí tuệ của Kirk dường như đã lặng lẽ chìm vào lịch sử, cùng với những hiểu biết đã định hình chủ nghĩa bảo thủ trong phần lớn thế kỷ qua. Đối với họ, giờ đây, sự bất bình quyết định chính sách. Thay vì thúc đẩy chủ nghĩa quốc tế do Mỹ dẫn đầu ở đất nước chúng ta ở đỉnh cao quyền lực, chủ nghĩa dân túy lại than phiền rằng các đồng minh và đối tác thương mại của chúng ta đã lợi dụng chúng ta, và rằng chúng ta cần thuế quan để giải quyết vấn đề, ngay cả khi phải trả giá bằng an ninh quốc gia và tăng trưởng kinh tế của chính chúng ta. Thay vì duy trì ký ức lâu dài của những người thực dân Anh, những người nghi ngờ sự lạm dụng quyền lực của chính phủ quân chủ, chủ nghĩa dân túy lại kêu gọi sự tập trung quyền lực hơn nữa ở Washington để thực hiện ý chí của chúng ta vì lợi ích chung. Thay vì niềm tin của Edmund Burke rằng con người có “quyền được hưởng thành quả từ công việc của họ và được hưởng các phương tiện để làm cho công việc của họ sinh lợi”, những người theo chủ nghĩa dân túy lại khăng khăng rằng chúng ta biến nhà nước hành chính thành vũ khí để buộc các doanh nghiệp phải hành động vì lợi ích của chúng ta.
Khi sự bất bình ngày càng định hình tư tưởng chính trị của phe cánh hữu, chủ nghĩa bảo thủ có nguy cơ đánh đổi bản sắc của nó như một triết lý quản trị mạch lạc để lấy một bản sắc mới như một lực lượng hoàn toàn đối lập. Đây sẽ là một bi kịch. Việc định nghĩa bản thân theo đối thủ thay vì theo các nguyên tắc của mình là một công thức cho sự suy thoái trí tuệ và sự vô định hướng chính trị. Tư duy như vậy nuôi dưỡng tư duy ngắn hạn và có nguy cơ tạo ra một nền văn hóa oán giận thay vì đổi mới. Nó có thể mang lại cảm giác dễ chịu trong khoảnh khắc, nhưng không thể khơi dậy lòng trung thành và mục đích bền vững mà chủ nghĩa bảo thủ đã mang lại cho đời sống quốc gia chúng ta trong lịch sử.
May mắn thay, khuôn khổ bền vững của Kirk về những tâm hồn trật tự và các chính thể trật tự mang đến cho chúng ta một con đường thực tế để thoát khỏi bờ vực của ba cuộc khủng hoảng chính trị đang rình rập: hỗn loạn toàn cầu, sự xa lánh của các đồng minh, và sự thắng thế của một chính phủ tập trung vô trách nhiệm.
CHÍNH TRỊ CÓ TRẬT TỰ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Mặc dù Kirk không phải là người theo chủ nghĩa can thiệp (một hệ tư tưởng bị chế giễu khá tàn bạo trong tiểu thuyết A Creature of the Twilight của ông), ông cũng không phải là người theo chủ nghĩa biệt lập. Ông hiểu rõ rằng một chính thể có trật tự phải tôn trọng các cam kết duy trì hòa bình và ổn định. Như ông đã lập luận trong cuốn The Roots of American Order (Cội Nguồn Trật Tự Hoa Kỳ), “một nền cộng hòa cần những nhà lãnh đạo có tinh thần danh dự.” Các liên minh không chỉ đơn thuần là giao dịch; chúng phản ánh các giá trị chung và lợi ích chung vượt xa những chi phí và lợi ích trước mắt.
Do đó, những người bảo thủ phải ủng hộ một chính sách đối ngoại cân bằng giữa thận trọng và nguyên tắc, thừa nhận rằng ổn định toàn cầu là nền tảng của an ninh quốc gia Mỹ. Trong chính sách đối ngoại, câu hỏi cốt lõi mà phong trào bảo thủ phải đối mặt là: Liệu chúng ta sẽ tiếp tục ủng hộ tự do, một nền quốc phòng vững mạnh, quân đội được tài trợ tốt và các liên minh vững mạnh, hay chúng ta sẽ quay lưng lại với bạn bè, cố gắng xoa dịu kẻ thù và rút lui khỏi một thế giới ngày càng mất trật tự và nguy hiểm hơn?
Trong những thế hệ sau Thế chiến II, một sự đồng thuận đã xuất hiện tại Hoa Kỳ rằng nước Mỹ nên là nhà lãnh đạo mạnh mẽ và tự tin của thế giới tự do. Ngày nay, một làn sóng mới của những người theo chủ nghĩa biệt lập cho rằng nước Mỹ nên rút lui khỏi vị trí lãnh đạo, hướng nội và chỉ tập trung vào các vấn đề trong nước. Chủ nghĩa biệt lập như vậy phản ánh một thế giới quan hạn hẹp, thiển cận hơn là tầm nhìn chiến lược vốn đã định hình chính sách đối ngoại bảo thủ trong lịch sử. Những người bảo thủ truyền thống không tìm cách kiểm soát thế giới, nhưng chúng ta nhận ra rằng một nước Mỹ mạnh mẽ và gắn kết là điều cần thiết cho an ninh, thịnh vượng và bảo vệ tự do trên toàn thế giới.
Chủ nghĩa biệt lập là sự nhượng bộ. Và nhượng bộ không phải là một chính sách đối ngoại. Ronald Reagan đã cảnh báo chúng ta rằng sự nhượng bộ “không cho chúng ta lựa chọn giữa hòa bình và chiến tranh, mà chỉ có giữa chiến đấu hoặc đầu hàng.” Việc vùi đầu vào cát trong khi các đối thủ âm mưu và mưu đồ gây đau khổ cho nước Mỹ và phần còn lại của thế giới là một chiến lược ngu ngốc và nguy hiểm. Chủ nghĩa biệt lập tự che đậy bằng lời hứa về hòa bình. Nhưng lịch sử – bao gồm cả lịch sử thế kỷ 20 – đã dạy chúng ta quá rõ rằng chủ nghĩa biệt lập dẫn đến xung đột và hỗn loạn.
Nếu Mỹ nhượng bộ những người theo chủ nghĩa biệt lập và từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình, điều đó sẽ chỉ tạo ra một khoảng trống mà Nga, Trung Quốc, Triều Tiên và Iran sẽ rất sẵn lòng lấp đầy. Những quốc gia đó có kế hoạch tái thiết thế giới để phục vụ các chế độ độc tài. Họ sẽ khiến thế giới trở nên toàn trị hơn, thù địch hơn, và ít quan tâm đến nhân quyền hơn – một thế giới mà tất cả chúng ta đều ít tự do hơn.
Hãy thử nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra nếu những người theo chủ nghĩa biệt lập thành công trong việc chấm dứt sự ủng hộ của Mỹ dành cho Ukraine. Nếu chúng ta để Vladimir Putin tràn vào Ukraine, điều gì sẽ ngăn cản ông ta xâm lược các quốc gia như Ba Lan, Estonia hay Latvia? Và thông điệp nào sẽ được gửi đến Trung Quốc, ngoài việc bật đèn xanh cho phép xâm lược Đài Loan, điều sẽ khiến toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương rơi vào hỗn loạn? Bạn có thể cứng rắn với Trung Quốc, hoặc bạn có thể là một người theo chủ nghĩa biệt lập – bạn không thể là cả hai.
Những người bảo thủ không bao giờ được phép bỏ qua những cơn bão đang nổi lên ở nước ngoài để đổi lấy ảo tưởng về an ninh trong nước. Chúng ta không bao giờ được phép để kẻ thù của tự do hoành hành khắp thế giới cho đến khi sự chuyên chế của chúng tràn vào bờ biển của chúng ta. Thực tế là tự do trong nước phụ thuộc vào những gì xảy ra bên ngoài biên giới của chúng ta.
Việc coi trọng an ninh của chúng ta không có nghĩa là nước Mỹ và các đồng minh phải trở thành lực lượng cảnh sát của thế giới. John Quincy Adams đã cảnh báo rằng nước Mỹ không bao giờ được “ra nước ngoài tìm kiếm những con quái vật để tiêu diệt”. Nhưng chúng ta phải hỗ trợ các quốc gia yêu chuộng tự do khác trong việc bảo vệ chủ quyền của họ. Như Burke đã viết trong cuốn “Những bức thư về một nền hòa bình tự sát” (mà Kirk rất thích trích dẫn): “Máu của con người không bao giờ nên đổ ra ngoài để cứu chuộc máu của con người. Nó được đổ ra vì gia đình chúng ta, vì bạn bè chúng ta, vì Chúa của chúng ta, vì đất nước chúng ta, vì đồng loại chúng ta. Phần còn lại là phù phiếm; phần còn lại là tội ác.”
Các đồng minh lâu đời của chúng ta đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, gìn giữ và thúc đẩy tự do trên toàn thế giới. Bằng cách giúp bạn bè tự vệ, chúng ta ngăn chặn kẻ thù và thúc đẩy lợi ích của Mỹ.
LINH HỒN CÓ TRỌNG TỰ VÀ THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU
Thương mại không phải là một trò chơi tổng bằng không của kẻ thắng người thua, mà là một khuôn khổ mà qua đó các cá nhân và quốc gia cùng nhau hợp tác để tạo ra sự thịnh vượng chung. Kiểu linh hồn có trật tự mà Kirk tin là thiết yếu cho một nền kinh tế chức năng đã chống lại sự cám dỗ xem thương mại chỉ đơn thuần là giao dịch, hay bóc lột; thay vào đó, nó coi thương mại là một hành động hợp tác lẫn nhau mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Như Samuel Gregg và Richard Reinsch đã ghi lại trong những trang này, các nhà tư tưởng kinh tế như Wilhelm Röpke đã chứng minh thị trường tự do tương quan với sự hình thành tính cách như thế nào. Trong bài luận “Nền kinh tế nhân đạo của Wilhelm Röpke”, Kirk đã tóm tắt dự án của Röpke như sau: “Mục tiêu của ông là khôi phục tự do cho con người bằng cách thúc đẩy độc lập kinh tế.” Ông tiếp tục:
Lý thuyết kinh tế, vốn là cơ sở cho sự cưỡng chế của nhà nước, đã nhiều lần chứng minh là sai lầm; “kế hoạch hóa” phá hủy cộng đồng tự nguyện và cố gắng thay thế bằng một kế hoạch tổng thể kém hiệu quả….Mục tiêu của hành động nhà nước nên là tư pháp hơn là kinh tế; và do đó, toàn bộ quan điểm của “các nhà hoạch định xã hội” đã bị bóp méo.
Thuế quan hoàn toàn có thể đóng vai trò là một công cụ hữu ích và thiết yếu trong bộ công cụ của quốc gia chúng ta – bảo vệ các ngành công nghiệp Mỹ khỏi sự gian lận của nước ngoài, buộc Trung Quốc phải đàm phán thương mại, thậm chí thuyết phục Mexico thực hiện hành động chưa từng có để giúp ngăn chặn dòng người di cư bất hợp pháp vào Hoa Kỳ. Nhưng chúng chỉ có thể được sử dụng hiệu quả khi được sử dụng một cách hạn hẹp và khiêm tốn, tránh sự giả vờ của các nhà hoạch định xã hội và “những kẻ đơn giản hóa khủng khiếp” của Kirk, những người phủ nhận những sự đánh đổi khó chịu đi kèm với thuế quan và không cho phép bất kỳ sắc thái nào hoặc phân biệt cần thiết giữa bạn và thù.
Đây là vấn đề lớn với các kế hoạch áp dụng thuế quan cơ bản phổ quát hiện đang được những người theo chủ nghĩa dân túy ủng hộ. Họ đã dùng búa tạ khi tình hình đòi hỏi phải dùng đến dao mổ. Tại sao chúng ta lại buộc các đồng minh lâu đời nhất của mình ở châu Âu phải tuân theo những điều khoản mà chúng ta áp đặt lên các quốc gia thù địch như Trung Quốc?
Margaret Thatcher đã đưa ra một hướng đi tốt hơn với tầm nhìn về một khối Anh ngữ gắn kết chặt chẽ hơn, nơi các quốc gia tự do sẽ củng cố quan hệ kinh tế, an ninh và ngoại giao với nhau, đồng thời duy trì các điều khoản chặt chẽ hơn với các đối thủ độc tài. Những người bảo thủ nên tìm lại cách tiếp cận khôn ngoan này, chấp nhận thương mại tự do với các quốc gia tự do trong khi vẫn duy trì mối quan hệ hạn chế hơn với các quốc gia như Trung Quốc và Nga.
Việc áp đặt thuế quan lên các quốc gia độc tài bác bỏ các giá trị của chúng ta và tiến hành chiến tranh kinh tế chống lại chúng ta và các đồng minh là hoàn toàn hợp lý. Nhưng chúng ta sẽ chẳng được lợi gì – thực tế là chúng ta sẽ mất rất nhiều – nếu áp đặt những biện pháp trừng phạt tương tự lên các nước bạn bè như Anh hay Israel.
LINH HỒN CÓ TRẬT TỰ VÀ NHÀ NƯỚC HÀNH CHÍNH
Tổng thống Ronald Reagan đã khôn ngoan nhận định trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên của mình: “Trong cuộc khủng hoảng hiện tại, chính phủ không phải là giải pháp cho vấn đề của chúng ta; chính phủ mới là vấn đề.” Tuy nhiên, ngày nay, một số người theo chủ nghĩa dân túy đã mất niềm tin vào bản thân và đồng bào Mỹ, thay vào đó lại coi chính phủ là giải pháp cho các vấn đề của thị trường tự do. Họ đã quên mất điều mà Kirk đã nhận thức rất rõ: thực tế về sự bất toàn của con người. “Cho rằng nhà nước đại chúng sẽ luôn công bằng và hào phóng với nô lệ của mình,” ông viết, “cũng giống như cho rằng, trên mọi cấp độ, sẽ tồn tại một tầng lớp triết gia-vua vượt trội hơn sự yếu đuối của con người, được thanh lọc khỏi dục vọng, đố kỵ và tham vọng nhỏ nhen.”
Xu hướng này không có gì mới. Trong hơn một thế kỷ, nước Mỹ đã vật lộn với hậu quả của việc những người theo chủ nghĩa cấp tiến nâng cao chuyên môn tập trung lên trên chủ quyền của nhân dân. Tầm nhìn tiến bộ về quản trị của một tầng lớp quản trị viên không được bầu cử, những người bề ngoài hiểu biết hơn công dân bình thường, đã di căn thành nhà nước hành chính khổng lồ ngày nay, nơi các cơ quan liên bang và cơ quan quản lý – miễn nhiễm với sự kiểm soát và cân bằng của trách nhiệm giải trình dân chủ – ban hành các sắc lệnh với sức mạnh của luật pháp.
Đây là mối đe dọa thực sự mà phe bảo thủ phải đánh bại: quyền lực ngày càng gia tăng của các quan chức, cơ quan quản lý và các chuyên gia tự xưng, những kẻ tìm cách áp đặt các điều kiện sống của chúng ta mà không có sự đồng ý hoặc khả năng kháng cáo của chúng ta. Cuộc chiến không chỉ đơn thuần chống lại chủ nghĩa tập thể cánh tả hay chủ nghĩa dân túy độc đoán, mà còn chống lại chính ý tưởng rằng chính phủ, chứ không phải người dân tự do và các thể chế tự do, mới là người quyết định trật tự kinh tế và đạo đức của xã hội chúng ta.
Chắc chắn, những vấn đề rất thực tế đã xuất hiện trong văn hóa doanh nghiệp đương đại ở Mỹ. Các phòng họp đã bị các nhà hoạt động cánh tả thâu tóm. Phố Wall đã bán mình cho những kẻ cực đoan tiến bộ bằng cách thúc đẩy các chính sách môi trường, xã hội và quản trị, những chính sách thúc đẩy các mục tiêu cánh tả gây bất lợi cho cổ đông và người lao động. Các công ty trong danh sách Fortune 500 đã chi hàng triệu đô la để phủ sóng truyền hình bằng những quảng cáo cổ súy cho chủ nghĩa chuyển giới và chủ nghĩa báo động về khí hậu cũng như sản phẩm của họ.
Điều này rõ ràng hơn bao giờ hết trong sự trỗi dậy của các sáng kiến DEI (Tư duy Kinh doanh) ưu tiên giáo điều chính trị hơn là công trạng và năng lực. Những chính sách này đã khuyến khích việc tuyển dụng dựa trên chủng tộc và giới tính, các bài kiểm tra tư tưởng tại nơi làm việc, và sự xói mòn sự xuất sắc trong cả giáo dục và công nghiệp. DEI chẳng khác nào sự phân biệt chủng tộc được nhà nước chấp thuận.
Nhưng điều cuối cùng mà những người bảo thủ mong muốn là buộc các công ty tư nhân trở thành doanh nghiệp “bảo thủ” để đối trọng với các doanh nghiệp “tiến bộ”. Thay vào đó, chúng ta nên mong muốn các công ty có lợi nhuận hoàn thành sứ mệnh doanh nghiệp của họ và tránh xa chính trị. Doanh nghiệp tồn tại để kiếm tiền, chứ không phải để thúc đẩy các hoạt động xã hội. Khi các công ty ưu tiên tư tưởng hơn lợi nhuận, họ có nguy cơ xa lánh cơ sở khách hàng và gây tổn hại đến lợi nhuận của mình. Công ty, nhân viên và người tiêu dùng đều phải gánh chịu hậu quả.
Mong muốn dân túy sử dụng quyền lực chính phủ để điều khiển hành vi của doanh nghiệp là trái ngược với các nguyên tắc bảo thủ. Mặc dù sự thất vọng với sự chuyển hướng sang cánh tả của các tập đoàn là điều dễ hiểu, nhưng việc vũ khí hóa nhà nước hành chính sẽ làm suy yếu doanh nghiệp tự do và có nguy cơ biến chính phủ thành công cụ cưỡng chế. Mặc dù cần có sự kiên nhẫn, nhưng thị trường có thể giải quyết vấn đề này hiệu quả hơn nhiều so với hành động cứng rắn, phản tác dụng của chính phủ mà chúng ta đã dành hàng thập kỷ để chỉ trích cánh tả vì đã thực hiện.
Khái niệm về tâm hồn trật tự của Kirk nhắc nhở chúng ta rằng sự thay đổi thực sự không đến từ các mệnh lệnh của chính phủ, mà đến từ sự đổi mới đạo đức. Những người bảo thủ phải chống lại sự cám dỗ từ bỏ việc bảo vệ doanh nghiệp tự do để theo đuổi những chiến thắng ngắn hạn. Thị trường tự do vẫn là cơ chế tốt nhất để khắc phục những hành vi thái quá của doanh nghiệp Mỹ, nhưng chỉ khi chúng ta có đủ kiên nhẫn và kỷ luật để để nó hoạt động.
TÁI TẠO TRẬT TỰ NƯỚC MỸ
Câu hỏi đặt ra cho những người bảo thủ ngày nay rất rõ ràng: Liệu chúng ta có tiếp tục là một đảng phái với những nguyên tắc bền vững, hay sẽ đầu hàng trước chủ nghĩa dân túy, tách rời khỏi những lý tưởng bảo thủ?
Động lực dân túy là điều dễ hiểu trong thời đại tham nhũng chính trị, sự thái quá của các tập đoàn và sự thất bại của các thể chế. Nó gây được tiếng vang bởi vì nó lên tiếng cho những nỗi thất vọng từ lâu đã bị tầng lớp tinh hoa phớt lờ, những người thường ưu tiên chủ nghĩa toàn cầu hơn lòng yêu nước, hiệu quả hơn đạo đức, và giáo điều cánh tả hơn lẽ thường. Tuy nhiên, như Kirk sẽ nhắc nhở chúng ta, nỗi thất vọng đơn thuần không phải là triết lý thống trị. Nếu chủ nghĩa bảo thủ để mình bị nhấn chìm bởi lòng nhiệt thành dân túy, nó có nguy cơ đánh mất bản sắc và từ bỏ những nguyên tắc đã mang lại những chiến thắng vĩ đại nhất của mình.
Công thức của Kirk – tâm hồn trật tự và chính thể trật tự – đã duy trì nước Mỹ trong nhiều thế kỷ, và vẫn là hy vọng tốt nhất của chúng ta cho tương lai. Nếu chúng ta bảo tồn hai con đường trật tự này và các thể chế tạo ra và duy trì chúng, thì sự lạc quan của Kirk sẽ là chính đáng. Nhiệm vụ trước mắt không chỉ là chống lại sự suy thoái, mà còn phải chủ động xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.
Một phong trào bảo thủ thực sự phải chống lại sức hấp dẫn của chính trị phục thù, ám ảnh bởi việc tập trung vào việc phá hủy các công trình của cánh tả. Như Kirk đã chứng minh một cách hùng hồn, các nền văn minh không được xây dựng trên sự phủ định, mà trên sự khẳng định. Chúng phát triển mạnh mẽ khi được neo giữ trong một trật tự đạo đức và tinh thần, định hình luật pháp, phong tục và sự quản trị của chúng. Nguyên tắc tương tự cũng đúng với các phong trào chính trị. Để lấy lại vị thế, phong trào bảo thủ phải quay trở lại nền tảng này, vun đắp những tâm hồn có trật tự, có khả năng duy trì một chính thể có trật tự.
Dự án này bắt đầu từ gia đình. Kirk hiểu rằng gia đình là nơi ươm mầm đức hạnh – thiết chế chính yếu mà qua đó trật tự đạo đức được thấm nhuần trong mỗi thế hệ. Những người bảo thủ phải ưu tiên các chính sách củng cố gia đình, chẳng hạn như luật thuế tạo điều kiện thuận lợi cho hôn nhân và nuôi dạy con cái, cải cách giáo dục trao quyền cho cha mẹ, và các nỗ lực văn hóa tôn vinh thay vì hạ thấp vai trò đặc biệt của người mẹ và người cha. Gia đình vững mạnh là cội nguồn của các quốc gia hùng mạnh. Không có gia đình vững mạnh, không một trật tự chính trị nào có thể tồn tại lâu dài.
Ngoài gia đình, những người bảo thủ phải ủng hộ các thể chế trung gian tạo nên nền tảng của cuộc sống Mỹ. Những thể chế này cung cấp nền giáo dục đạo đức, tương trợ lẫn nhau và ý thức về sự gắn kết, giúp xã hội không rơi vào vực thẳm hỗn loạn. Alexis de Tocqueville coi sự phổ biến của chúng là một trong những thế mạnh nền tảng của nước Mỹ. Tầm nhìn của Kirk kêu gọi phân cấp quyền lực, nhấn mạnh tính địa phương và cụ thể hơn là tính quốc gia và trừu tượng. Một phong trào tái khám phá tầm quan trọng của những thể chế nhỏ bé nhưng thiết yếu này sẽ nuôi dưỡng những tâm hồn có trật tự, từ đó có thể xây dựng một xã hội trật tự hơn.
Trong lĩnh vực quản trị, những người bảo thủ trong thế kỷ 21 phải lắng nghe lời kêu gọi thận trọng của Kirk. Các chính sách dân túy tìm cách xóa bỏ những kẻ thù mà họ cho là thù địch mà không quan tâm đến hậu quả lâu dài có nguy cơ làm suy yếu chính trật tự mà họ tuyên bố ủng hộ. Cho dù đó là thuế quan khiến các đồng minh xa lánh, sự lạm dụng quy định nhằm trừng phạt các công ty tiến bộ, hay chủ nghĩa biệt lập khiến những kẻ chuyên quyền trên thế giới không bị kiểm soát, những cách tiếp cận này đều trái ngược với chủ nghĩa bảo thủ thận trọng và chừng mực mà Kirk theo đuổi. Chủ nghĩa bảo thủ đích thực không chỉ phản ứng; nó hành động với sự khiêm nhường, tầm nhìn xa và hướng đến việc bảo tồn “những điều vĩnh cửu”.
Cuối cùng, những người bảo thủ phải nhớ rằng trật tự trong chính trị bắt đầu từ trật tự trong tâm hồn. Đây có lẽ là bài học sâu sắc nhất của Kirk, bài học phù hợp nhất với thời đại chúng ta. Con đường phía trước không phải là những mệnh lệnh toàn diện của chính phủ hay những cuộc thập tự chinh văn hóa mang tính trừng phạt, mà là sự đổi mới cá nhân và sự sáng suốt về đạo đức. Những người bảo thủ phải dẫn dắt bằng tấm gương, thể hiện trong cuộc sống của chính họ những đức tính mà họ muốn thấy được phản ánh trong xã hội. Chính trực, khiêm tốn, bác ái và lòng dũng cảm – đây là những phẩm chất duy trì nền văn minh. Chúng phải được vun đắp mới mẻ trong mỗi chúng ta trước khi có thể truyền lại cho thế hệ tiếp theo.
Khi tìm lại sự khôn ngoan của Russell Kirk, phong trào bảo thủ có cơ hội giành lại vị thế xứng đáng của mình với tư cách là người quản lý cuộc thử nghiệm của nước Mỹ – người bảo vệ tự do có trật tự, người bảo vệ các thể chế Mỹ, và người đấu tranh cho cơ hội vô hạn vốn luôn là quyền bẩm sinh của người Mỹ. Chỉ bác bỏ chủ nghĩa cực đoan của cánh tả hay sự thái quá của cánh hữu dân túy là chưa đủ; những người bảo thủ phải thể hiện và hiện thân cho một tầm nhìn tích cực về cuộc sống tốt đẹp. Tầm nhìn này phải bắt nguồn từ đức tin, lý trí và những nguyên tắc bền vững đã định hình quốc gia chúng ta kể từ khi thành lập.
Như chính Kirk đã viết: “Trật tự [là] nhu cầu hàng đầu của tất cả mọi người.” Không có nó, tự do sẽ tan rã, thịnh vượng sẽ lụi tàn, và những sợi dây gắn kết một quốc gia sẽ bắt đầu lung lay. Nhưng một trật tự bắt nguồn từ truyền thống và chân lý đạo đức sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho sự thịnh vượng của con người và sự vĩ đại của quốc gia.
Chủ nghĩa bảo thủ không chỉ đơn thuần là sự phản kháng trước sự hỗn loạn – mà còn là một lời hứa, một tiếng gọi, một nghĩa vụ gìn giữ những gì tốt đẹp và vun đắp những gì trường tồn. Nếu chúng ta kiên định với sứ mệnh này, chúng ta không chỉ bảo đảm những phước lành của tự do cho chính mình mà còn truyền lại cho các thế hệ tương lai một nước Mỹ hùng mạnh, tự do và thực sự xứng đáng với những lý tưởng sáng lập của nó.
Mike Pence là Phó Tổng thống thứ 48 của Hoa Kỳ và là người sáng lập tổ chức Thúc đẩy Tự do Hoa Kỳ.
Ed Feulner là người sáng lập Quỹ Di sản.







































