“Bao giờ thì bố về vậy?” – Con bé Bi (bé Yến) lại nhấp nhỏm hỏi giữa bữa cơm tối. Tôi ngồi ăn không nói, còn mẹ thì xoay sang bật tivi để nghe thời sự. Chẳng biết câu hỏi này của nó đã lặp lại lần thứ bao nhiêu từ dạo bố bị bắt tháng 4 năm 2008. Cũng chẳng nhớ mẹ và tôi đã trả lời nó bằng sự im lặng bao nhiêu lần… Bữa cơm ba người và một con chó vẫn thường văng vẳng tiếng tivi nói cười như vậy.
Những ngày trước phiên xử 24 tháng 9 công an liên tục đến hỏi thăm và gửi những giấy mời với nội dung vô lý. Những người “vô gia cư” sau đó cứ lam lũ đến trước cửa nhà trông ngóng, ăn, ngủ, nằm ngồi vô tội vạ trên xe và vỉa hè. Chỉ cần bước xuống nhà là nghe tiếng hô hoán, vẫy gọi nhau để đón đường hoặc kè xe. Có xe ép sát đến nỗi có thể ngửi thấy hơi thở hôi hám của những cỗ máy sống bằng thuốc lá này. Tôi và mẹ đã có thể đoán được bản án sẽ vô cùng bất công qua cách công an bật đèn xanh thậm chí hỗ trợ cho những tên côn đồ đánh đập mẹ tôi tại Bạc Liêu, cũng như tìm cách ép xe tôi. Công khai thể hiện sự đe dọa.
5 giờ sáng ngày xử bố 24 tháng 9:
Trước cánh cổng chung cư còn chưa mở, vài công an, dân phòng và hơn năm người mặc thường phục chễm chệ trên xe bán tải chuyên dụng đã ngồi cười nói và chia nhau điếu thuốc từ bao giờ. Đường còn vắng nên tiếng họ cười nói vang vang dù ở ban công cũng có thể nghe thấy. Nhưng thay vì tò mò nghe xem họ nói gì vui thế, tôi bắt đầu suy nghĩ xem họ sẽ bắt tôi và em tôi như thế nào…
6 giờ rưỡi sáng:
Tôi và em gái đã sửa soạn xong để em đến trường còn anh lên tòa án. Tôi nghĩ đơn giản “Chuyện học là quan trọng, tôi là người tự do và không phạm pháp. Bản thân tôi đã bị ngăn cấm chuyện học, không lẽ họ mất hết tính người ngăn cản cả em tôi. Chuyện tôi chở em đến trường là không phải e ngại”. Nhưng tôi sai! Bọn họ không cần lý lẽ. Khi tôi vừa đi xuống, một người mặc áo sơ mi chạy ra gọi hơn bảy người cả sắc phục lẫn thường phục ùa vào chặn bắt. Tên mặc áo thun vàng chặn đầu xe tìm cách giật chìa khóa ra và hỏi “mày đi đâu…? Mặc áo đen là vi phạm… Vi phạm thì đi lên phường.” Chắc ai cũng đoán được tôi sẽ quẳng vào họ những câu hỏi ngây ngô như “mặc áo đen có gì sai?” và “tôi vi phạm cái gì?”; “các người là ai?”… Nhưng thay cho việc trả lời, họ đồng loạt lao vào bẻ tay lôi tôi ra trong khi một người mặc thường phục vẻ mặt thách thức cầm điện thoại quay lại.
Bé Bi bật khóc. Tên mặc áo sơ mi liền đưa tay vẫy người mặc sắc phục dân phòng đang chặn xe máy ngang cổng chung cư chạy vào. Người này đề nghị “em đi với anh”. Thấy chuyện không tốt lành tôi ngoái lại dặn em “phải lên nhà tự bảo vệ mình” trong lúc những người vô danh tự xưng công an bẻ tay tôi ra sau lưng và đạp vào cẳng chân tôi như bắt một con thú hoang… Chẳng biết con Bi có còn nghe tôi dặn dò gì giữa tiếng la hét vô nghĩa của những con người méo mó kia không? Chỉ nhớ đến đầu ngõ tôi ngoái thấy nó vẫn đứng khóc ở chân cầu thang. Những người hàng xóm trong chung cư “chẳng may” được chứng kiến cũng vội vàng lướt qua đám đông sừng sộ.
Sát đến mé đường, bị ép chặt vào thành sắt chiếc bán tải. Tôi la to “tôi làm gì sai?”nhiều lần, như là một phép thử cho mức độ bàng quan của người qua đường. Bàng quan hay sợ hãi?! Có lẽ đều giống nhau trước sự chuyên nghiệp và máy móc của những con người không mặc sắc phục, không tên tuổi, và trên hết là họ không phải chịu trách nhiệm bất cứ việc gì họ làm. Một thân một mình, tôi vẫn hồn nhiên hét bốn chữ đó cho đến khi bị nắm đầu vào trong chiếc bán tải. Những người vô danh vội vã trả lời bằng cả ngôn ngữ cơ thể lẫn lời nói. Họ vừa đấm đá túi bụi vừa nói “Đ* M*! có tội gì hả. có tội gì hả!?”…
Công an khu vực, công an phường, và dân phòng quen mặt của khu phố tôi sống đều có mặt. Họ cẩn thận không tham gia trực tiếp đánh đập tôi, nhưng rất nhiệt tình hỗ trợ chặn đường và đuổi những bà con hiếu kỳ.
Tôi, Nguyễn Trí Dũng. Người không những có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án mà còn là thân nhân ruột thịt của bố tôi. Người mà lẽ ra phải có giấy mời triệu tập đến tòa án để tham dự và chứng thực những bằng chứng buộc tội khi cần thiết. Người lẽ ra không thể vắng mặt tại phiên tòa “công khai” này lại bị “bắt cóc” trong cuộc chặn bắt có thể xem là đầu tiên của ngày 24 tháng 9.
Clip công an bắt người
Chưa đầy 3 phút sau:
Chiếc xe bắt tôi hụ còi lao đến phường như bay, hai người mặc thường phục thở phì phào ghì chặt tôi xuống ghế sau. Tôi bất chợt nghĩ đến bố tôi những ngày ông đã phải lên phường theo cùng một cách này suốt đầu năm 2008 đến khi ông bỏ đi Đà Lạt để chữa bệnh và bị bắt khẩn cấp ngày 19 tháng 4 năm 2008, 9 ngày trước khi ngọn đuốc Bắc Kinh đi qua Sài Gòn.
TƯỞNG NIỆM 50 NĂM HOÀNG SA 19/1/1974 – 19/1/2023
Tôi bước xuống xe thấy bốn bề là công an phường, dân phòng và những người mặc thường phục vô danh. Trong gió đã khét khói thuốc và cả sự chờ đợi của họ dành cho màu áo đen tôi mặc từ bao giờ. Tôi đứng thẳng để họ được ngắm cho kỹ trước khi ông Trần Song Nam chỉ đạo hai người vô danh lôi tôi vào phòng “họp”. Hai người vô danh đó tôi biết, vì đã mòn mặt ngồi trước cổng nhà tôi mỗi khi có bất kỳ nhà báo, tổ chức bảo vệ nhân quyền, quan chức chính trị ngoại quốc… đến Việt Nam và có khả năng gặp gỡ gia đình tôi. Mòn mặt đến nỗi tôi đã tự ý chuyển đổi chức năng của các anh thành cái chuông báo, mỗi khi thấy xuất hiện là chắc rằng có gì đó tôi cần phải biết.
Hai người này vào ngồi đối diện và hỏi thăm tôi những câu hỏi vu vơ. Tôi trả lời câu hỏi bằng câu hỏi “tôi làm gì sai?” thì hai người này ngừng nói. Chỉ lấy điện thoại ra chụp hình tôi rồi cười khẩy.
Tiếng điện đàm Motorola dắt trên túi áo vang vang cắt ngang cuộc nói chuyện không tên: “A2 báo cáo, có bảy người mặc đồ đen đi ra từ hướng Kỳ Đồng”, một người vội lấy tay kéo volume của máy xuống. Nhưng tiếng một người tôi không thấy mặt đứng ngoài song sắt trả lời vọng lại đã cho tôi nốt phần còn lại của đoạn hội thoại “Nhớ bắt ngay ở những chỗ chờ, cố gắng đừng kéo hàng rào…” Vội vã đi ra, nhưng hai người vô danh không quên phẩy tay gọi một dân phòng của phường ra chốt cánh cửa lại và bắt ghế ngồi trông “thằng tù” tôi. Để thỏa trí tò mò tôi gióng tai qua song sắt cửa sổ để nghe diễn biến cuộc vây bắt đang diễn ra qua tiếng điện đàm vang vang. Như đứa trẻ nấp sau cánh gà nghe lậu vở cải lương, tôi nghe được màu áo đen đã đổ về từ mọi hướng, rồi lần lượt mỗi người được mời về phường hoặc tống tiễn về nhà. “Bảo nó lên phường hay về nhà”; “Bắt vì tội lấn chiếm lòng lề đường, cản trở giao thông”; “Bắt để kiểm tra hành chính”… một giọng nam đứng tuổi liến thoắng chỉ đạo qua điện đàm…
Tám giờ hai mươi phút:
Bất chợt trụ sở công an Phường 6 Quận 3 trở nên ồn ào, từ song sắt cửa sổ tôi thấy nhiều hơn một chiếc bán tải lao vào trong phường. Tôi nhác thấy mẹ tôi bị bốn người đàn ông thường phục kéo từ xe ra rồi bẻ tay xốc bổng lên. Bà phản kháng mãnh liệt vì họ đã bắt bà vô lý cớ, còn một người đứng tuổi mặc áo sơ mi trắng liên tục văng tục chỉ đạo những tay chân vô danh lao vào, người này lớn tiếng dọa “đánh chết m*” mẹ tôi và những người mặc áo đen đang kêu gào. Blogger Hoàng Vi, hai chị em cô Tạ Minh Tú và Tạ Khởi Phụng lần lượt bị lao vào giằng kéo, rồi cha Thanh của Dòng Chúa Cứu Thế tay đang bế con trai cô Tú bị hai cảnh sát giao thông áp tải vào trong sân của trụ sở. Tôi la hét chán rồi nín thở nhìn từng người bị lôi ngang qua sân. Mỗi người một phòng. Tiếng lầm rầm lắng lại. Cứ cách quãng lại có tiếng la hét hay đạp cửa khiến cho trí tưởng tượng của tôi phải nhảy múa…
Mẹ có đau không? Các cô các chú có sao không?…
Có một công an mặc sắc phục đầu đinh đi vào, vừa lấy vai áo lau mồ hôi ở cằm, anh này nhìn anh dân phòng đang ngồi canh “tù” mà rằng “Đ* M*, y như đánh trận”.
Chín giờ kém (từ phía sau song sắt):
Điện thoại của phường đổ chuông liên hồi làm ông trung tá công an Vũ Văn Hiển phát cáu “sao không đứa nào nhấc máy”. Tiếng một phụ nữ tôi không thấy mặt trả lời “có thằng cha nào đó cứ đòi gặp ông Nam, hỏi tại sao bắt người”. Rồi như không cần suy nghĩ, ông Hiển nhấc máy lên vài giây rồi nói “ở đây không bắt ai hết”và cúp máy. (Sau này tình cờ một người bạn mới hỏi thăm tôi và nói cho tôi biết một người có nickname “anh năm anh bảy” dù đang phải đi làm nhưng đã gọi liên tục để yêu cầu thả người, tôi rất lấy làm cảm ơn mọi người đã quan tâm và có hành động kịp thời đến như vậy).
Có lẽ công an phường rất tâm lý khi biết tôi buồn chán nên đã cho một công an phường không có bảng tên vào hỏi thăm tôi hai lần. Lần thứ nhất người này đem theo giấy bút quăng ra bàn nói “viết tường trình đi”. Tôi hỏi “tường trình gì chú? tôi làm sai cái gì?” thì được chọc cười bằng câu trả lời sau “tại sao mày bị bắt lên đây thì ghi lại! Những người bắt mày không phải công an phường, tao không biết. Bây giờ công an phường hỏi mày thì mày trả lời”. Tôi nói rõ “xe công an và công an khu vực đã hỗ trợ bắt tôi, tôi đang yêu cầu cho biết tại sao bị bắt. Giờ chú hỏi ngược lại vậy, tôi bó tay”. Lặng im vài giây người này liền bỏ đi. Lúc quay lưng đi ra chú công an vô danh không quên bỏ lại vài câu “giờ không làm tường trình gì hết thì cứ ngồi, ngồi chán thì về”. Rồi phẩy tay cho anh dân phòng chốt cửa và bưng cái ghế sắt chèn cửa lại. Lần thứ hai là lúc ông Hiển đứng ngoài song sắt cửa sổ ra lệnh “thu áo lập biên bản”, vẫn người công an phường này lại vào bảo “mặc áo này là vi phạm, mày tự cởi áo ra”, nhưng rồi vẫn không trả lời được là “mặc áo thun đen vi phạm chỗ nào” nên người này lại đi ra. Vẫn không quên thị uy người này nói “không cởi thì tiến hành cưỡng chế…”
Hai giờ chiều:
Nói là làm. Ông Vũ Văn Hiển cùng năm dân phòng và vài người mặc thường phục đã tiến đến trước cửa phòng “họp”. Mẹ tôi bị giam ở phòng bên đã được thả ra và được yêu cầu về nhà ngay. Biết tôi còn ở bên trong nên bà đã lao sang và bị ông Hiển cùng vài dân phòng chặn lại. Ngay khi dân phòng mở chốt và kéo cái ghế sắt đang chèn cửa ra, một người mặc áo thun xanh lao vào giọng đe dọa “bây giờ anh nói nhỏ nhẹ mày tự cởi áo ra, không ai muốn phải làm theo cách khó hết”. Tôi bảo “mặc áo thun có gì sai?” thì được trả lời “án đã tuyên rồi bây giờ mày mặc áo thun này là vi phạm pháp luật”. Tôi thẳng thừng “muốn cưỡng chế thì anh cứ làm, tôi không làm gì sai tôi không phải tự cởi”. Một dân phòng nhảy vào kéo áo tôi ra, lạ ở chỗ là người này vừa cởi áo tôi vừa nói “đúng rồi, mày tự cởi áo vậy có phải dễ không”. Tôi đoán rằng họ ghi âm để ngụy tạo bằng chứng họ không cưỡng chế tôi nên tôi nói lớn “tôi không tự cởi”. Lúc này ông Vũ Văn Hiển đang chặn mẹ tôi quay sang văng tục “mày có tin tao bẻ cổ chết m* mày không, tự do con c*t…” và thúc những người khác cũng xông vào cưỡng chế, lập tức khi áo đen bị kéo ra. Người mặc áo thun xanh nhảy vào ghì cổ tôi xuống để cưỡng chế tôi lần thứ hai. Cưỡng chế tôi mặc áo sơ mi của họ chuẩn bị sẵn. Thấy họ đánh vật mà không mặc được áo vào cho tôi, ông Hiển quát “kệ mẹ nó cởi trần đi về” và đó cũng là câu cuối cùng mà tôi được nghe trước khi rời trụ sở công an phường 6 quận 3 ngày 24 tháng 9 đầy kỷ niệm…
Tôi và mẹ đi bộ về, bà cho tôi biết họ đã vội vã tuyên án bố tôi 12 năm tù và 5 năm quản chế trong sự phẫn nộ. Như vậy, sau một thời lượng tạm giam và điều tra dài kỷ lục, là một phiên xét xử ngắn kỷ lục, kết lại bằng một bản án cũng bất công kỷ lục.
Luật sư đã cập nhật cho tôi và mẹ biết qua những dòng súc tích sau:
– Không có đối đáp giữa luật sư và nhân chứng, càng không có đối đáp giữa nhân chứng và bị cáo.
– Tất cả luật sư đều bị cắt ngang khi đang đọc bài bào chữa, bị cáo bị cắt lời khi đang nói.
– Nhân chứng (thứ duy nhất được dùng để buộc tội) có mặt 3/10 người, và thẩm phán đã không thể trưng ra những giấy “xin vắng mặt” của các nhân chứng còn lại khi LS yêu cầu.
– Bằng chứng “tuyên truyền” hay việc “gây tổn hại nghiêm trọng” đã không được trưng ra dù nhiều lần cả bố tôi và luật sư yêu cầu…
– Phiên tòa năm tiếng rưỡi cho một bản án được tính toán là sẽ đẩy bố tôi đến ngưỡng “tuổi thọ trung bình của người Việt Nam” là 70 tuổi.
Quá nhiều suy nghĩ trong đầu, thay vì tức giận tôi lặng im bước đi. Người dưng trên phố giờ như đã tìm lại được chút quan tâm, họ chỉ trỏ rồi nói cười. Tôi ở trần về nhà với mẹ trong lúc trời bắt đầu âm u cơn mưa chiều.
Nguyen Tri Dung (English version by Danlambao) Son of BloggerĐiếu Cày Nguyễn Văn Hải – “When will daddy come home?” – My little sister, Bi, anxiously asked at dinner. I kept on eating without a word, while our mother turned to switch on the TV to listen to the news. I don’t know how many times her question has been repeated since the day our father was arrested in April 2008, nor do I remember how many times my mother and I answered her in silence. Our meals among the three people and a dog often exist amid the noise coming from the T.V. set… like tonight.
The days preceding the trial of Sept. 24, the security police continued to pay their visits and sent us their “invitations” with ridiculous contents, demanding more “working sessions” with us. Then “the homeless” (a local term I gave to the police in plain clothes) occupied our front door, watching, eating, sleeping, lying, sitting in their car and on the sidewalk. Any of us who stepped out of the house could immediately hear their shouting, calling on each other to block us, or to follow us on their motocycles. They often followed us so closely that we could smell the foul breath from these heartless machines living off cigarettes. My mother and I could have predicted the unjust sentence that the authorities would give my father at the trial, just from our observation of the facts that the authorities had given a green light allowing their “thugs-for-hire” to beat up my mother in Bac Lieu city, and to chase after me with the intention to stage a traffic accident. The days before the trial, the authorities’ threats became more and more overt.
5 a.m. on the trial day, Sept. 24, 2012:
In front of our residence’s communal gate, which was not yet open for the day, a few security police, local security guards, and more than five plain-clothed agents were already sitting in their truck, talking, laughing loudly and sharing cigarettes. There was hardly a soul yet in the street at this early hour of the morning, which made their conversation and laughter echoed so loudly that even from the high balcony, I could hear them clearly. Nevertheless, instead of listening to them and figuring out what it was that made them talk so cheerfully among themselves, I began to think of how they would be arresting me and my baby sister this morning…
The”homeless” with their truck
My sister and I were ready to leave: her off to school and I, to the court house. My thought at that moment was simple: “Education is important. I am a free individual. I have never committed any crime. I, myself have been forbidden to continue my studies. It would be absurd for me to think that these security police would lose any last ounce of humanity left within them to stop my baby sister from going to school too. I would just simply take my sister to school. There would be nothing to worry about”. But I was wrong… they didn’t need any logical reason. When I came out, a guard wearing a plain shirt rushed out to call over more than seven agents, in police uniform as well as in plain clothes, and they all tried to stop us. The agent wearing the yellow shirt (photo attached) blocked me off and tried to snatch the key from my motorcycle’s ignition. He screamed: “where do ya think y’re going?”. “Your wearing black is an offence…”, “Committing an offence results in your coming with us to the police station”… Surely you could guess all kinds of naive questions that I would have thrown back at them such as “why would wearing black be an offence?”, “what offence did I commit?”, “who are you people?” etc. … unfortunately instead of answering me, they all rushed in to twist my arms behind my back, and pushed, and pulled me out from my motorcycle. All the while another plain-clothed agent with a challenging look on his face, took out his mobile phone to make a call.
My little sister, Bi, bursted out in tears. The agent in a plain shirt called over another local security guard. The latter suggested that I complied and went along with him. I knew it would not be good for my sister to witness any more of this so I turned my head back to quickly tell my sister: “go back upstairs and protect yourself”; all the while these self-claimed to be security police twisted my arms to the back and kicked me as they would capture a wild animal … I didn’t know if my sister could hear anything I said to her in the midst of all the senseless screaming and shouting of these distorted individuals. I only remembered that when we reached the street, I turned back to see my little sister still standing crying at the bottom of the stairs. Some neighbours in the building who unfortunately had to witness all this were quickly rushing by to avoid these loud and aggressive assailants.
When approaching closer to the street, I was pushed hard and tight into the metal rod of their truck, I yelled out several times: “what did I do wrong?”. I was trying to test the degree of desensitization of the bystanders. De-sensitized or scared? I asked myself of their inaction? Maybe both. It meant the same thing when one faced against the skillful and machine-like oppression from these non-uniformed, no-identity individuals, but above all, when they would bear no responsibility, no accountability for whatever they did. So I was utterly alone, by myself, I still naively screamed those 4 words until they grabbed my hair and pushed my head in first inside their truck. These nameless individuals hastily answered my question with both their “body language” and with words: they punched and kicked me non-stop and at the same time, cursed me “F…you! what offence? what offence you asked???” ….
Local district security police, ward police, neighbourhood police … I knew all their faces and they were all there. These local agents were careful not to engage directly in beating me but were very actively helping the act by blocking off the street and chasing away curious bystanders.
The truck that captured me turned on its siren and raced to the police station in hostility. The two plain-clothed police breathed heavily as they tried to hold me down tightly in the back seat. Suddenly I thought of my dad on the day that he was arrested and taken to the police station in this same manner. He was consistently treated this way back in early 2008 until he left Saigon to go to Dalat city for health care treatment, and there he was arrested urgently on April 19, 2008. That was 9 days before the Beijing Olympic torch was to be relayed in Saigon.
My father – blogger Dieucay Nguyen Van Hai and his friends
with posters saying Paracel and Spratly islands belong to VN
I stepped down of the truck and saw on all sides, local security police, local security guards, and plain-clothed agents. In the wind, the smell of burnt cigarettes seemed to have been awaiting the arrival of my black shirt that day. I took an effort to stand up straight so that they could see and read my black shirt clearly before Mr. Tran Song Nam directed two nameless agents to pull me into a “working room”. I knew the faces of these two nameless agents well because they had been persistently staking out in front of our house every time there was a foreign reporter, an international human rights organization, or a foreign diplomat who came to Vietnam and the authorities suspected that these concerned “foreigners” might have requested a meeting with our family regarding my dad’s trial. These two agents were so predictable and persistent to the point that I voluntarily changed their job duty to that of an “alarm clock”: each time I saw their faces snooping in front of our house, I immediately knew there ought to be something important concerning my dad and my family that I needed to know.
These two nameless faces sat across from me and asked me trivial questions. I answered their questions with always the same question: “what did I do wrong?”. That stopped them from talking. With sniggers, they took out a mobile phone to take pictures of me.
The loud conversation exchange coming from their Motorola devices cut short our trivial questioning: “A2 reporting, there are 7 people wearing black walking from Ky Dong St. direction”. One of them quickly turned the volume of his reporting device lower. However another agent standing outside of the room, on the other side of the iron-barred window, replied to the other party on the Motorola phone device, that helped me put together the rest of their report: “Remember to arrest them immediately at the waiting area… Try not to move the barricade…” These two nameless then rushed out of the room without failing to signal another local security guard to use a chair to jam shut my detention room’s door, and to sit on the outside watching me, who just became “their prisoner”. To satisfy my curiosity, I put my ears to the iron bars of the window to listen to their chasing, arresting and reporting coming from their Motorola reporting devices coming from outside. Like a little kid hiding behind a stage curtain to sneak a peak at the show without paying for the show ticket, I overheard that: “the black-coloured clothes have been coming from all directions now towards the court house”. Then each individual wearing black was either arrested and taken to the police station or forced to turn back home: “Tell them either go to the station or go home”, “arrested because they occupied the sidewalk, blocking the traffic”, “arrested for administrative questioning” … It was all from a male, older voice who quickly gave direct orders for the arrests over the reporting device…
8:20 am:
All of a sudden, the local police station of Ward 6, District 3 became noisy. From the iron-barred- window, I saw more than one truck racing into the driveway. I caught a glimpse of my mother who was being pulled down the truck by four plain-clothed agents. They twisted her arms backward and lifted her off the ground. She was resisting with all her might against their arbitrary arrest. An older agent in a white shirt was giving orders to other plain-clothed police to rush in to “beat the f. out of her”, referring to my mother and also to the other women who were wearing black who had just been brought in. I noticed among them, female blogger, Thuc Vi, the two sisters of blogger Ta Phong Tan, the co-accused on the same trial with my dad, (Ms. Ta Minh Tu and Ms. Ta Khoi Phung), and Father Thanh from the Redemptorist church, who was holding in his arms Ms. Tu’s baby boy. They were all roughed up badly then pushed and pulled into the courtyard of the police station. I screamed and yelled out to them: “Mom, mom are you hurt? Miss, aunties, uncles, are you ok?” Then I held my breath to watch each of them being pulled across the courtyard. Each person was kept in one detaining room. The noises died down. Then every now and then there was a loud screech or a kick into the door that made my imagination reacted …
Then a security police agent in full uniform with an army crew haircut walked in. As he was wiping off the sweats trickling down on his chin, and telling the local security guard who had been watching me: “F***. just like fighting in battles”
Short of 9 am (from behind the iron-barred window):
The phone was ringing off the hook that caused Mr. Vu Van Hien to cry out angrily: “why nobody answers the damn phone?”. There was a female voice answering him, whose face I couldn’t see: “there is some jerk who has been calling non-stop, asking for Mr. Nam, questioning why we arrested people”. The phone kept ringing, and as if without thinking, Mr. Hien picked up the phone and said: “we don’t arrest anyone here”, then slammed the phone down. (Days afterwards I learned from a friend who told me that there had been some supporters who used the nicknames of “brother Five, and brother Seven”, who even during their working hours and shifts, kept calling to demand the police to release those detained. I deeply appreciate all those who showed their concerns and took quick, timely and persistent action to support us that day).
Perhaps the security police was well trained in “prisoner” psyche, knowing that I would be bored out of my mind, so they let a local ward police officer who wore no badge nor name tag to enter my detention room twice. The first time he threw on the desk some paper and a pen and said to me “write your report now”. I asked: “report about what?” what did I do wrong?”. I was terribly amused with his answer: “why you were arrested, you write it down! Those who arrested you were not police agents from this ward, so I don’t know why you were arrested. Now I am a police officer of this ward, I ask you to answer me why you were arrested”. I said clearly: “the security police truck, the local police officers all assisted in my arrest this morning, I’ve been asking the authorities to inform me of the reasons why I am being detained, now you’re asking me to provide you with the reasons why I’m being held??? I honestly don’t know what to say to you.” He was silent for a few seconds, then left the room, but not before he threw back over his shoulder a last warning: “if you don’t write your report now, then just sit there, if you’d like; until you’re allowed to go home”. Then he signaled the local security guard to bar the door using a metal chair. The second time it was when Mr. Hien who was standing outside of the iron-barred window giving the order: “strip his black shirt and file it as evidence”. This time, the same security police agent re-entered my room and said: “wearing this T-shirt is an offence. Take it off yourself.” But he could not answer me why wearing this black shirt was an offence, so he left the room again. But again, not without threatening that if “you don’t take it off yourself, we’ll force you to take it off”.
Words came with action. Mr. Vu Van Hien and five local security guards and a few plain-clothed agents approached my detention room. My mother who was detained in the next room had been released and was ordered to go home immediately. Knowing that I was still detained there, my mom rushed over but was stopped by Mr. Hien and some others. This time, the minute the metal chair barring the door was removed, an agent in a blue/green T-shirt barged in quickly with a threatening voice: “I’m telling you to take your black shirt off yourself, nobody wants to do it the hard way”. I asked: “how is wearing black wrong?”. He replied: “The sentence was handed out at trial. Now you keep on wearing this shirt is a violation of the law”. I was straightforward: “if you want to take it by force, you can, but I believe I did nothing wrong, so I’m not taking it off voluntarily”. Another agent rushed over to pull off my shirt. The strange thing I noted was that while he was trying to pull off my black shirt, he kept saying loudly “yes, good!, you take it off yourself. It is so much easier this way, isn’t it?”. I assumed they were recording it to fabricate evidence later that they were not applying force on me and that I volunteered to take off my black shirt by myself, so I said loudly “No, I am not taking it off myself”. Upon hearing it, Mr. Hien who was trying to stop my mom outside of my detention room, turned and cursed at me “do you believe I would break your f. mother’s neck? Freedom, my dick!!!” (sorry for my repeating his exact vulgar words). He then ordered the rest of them to come into the room and to forcibly strip me off of my black T-shirt. When they succeeded taking it off, the agent in the green/blue T-shirt tried to push my neck down so that he could force over my head one of their shirts. I resisted as long as I could, and upon seeing that his agents could not pull over me the shirt that they had prepared for me, Mr. Hien yelled out: “let him f… naked going home”. And that was the last sentence I heard from an official before leaving the ward 6, district 3 police station on the memorable day of Sept. 24, 2012.
Walked home with my mom
My mom and I walked home. She told me in anger that they sentenced my dad to 12 years of prison term and 5 years of house arrest. So there it was: after the record-breaking long period of temporary detention followed by another long investigative detention, was a record-breaking short trial, ended by a long jail sentence that was also record-breaking unjust.
Later, our defence lawyer gave me and my mom the following update of the court proceedings that morning:
– There was no examination nor cross-examination between counsel and witnesses, and absolutely no cross-examination between witnesses and the defendants.
– All defence counsels were cut off while they were giving their defence statements, and the defendants were also cut short while speaking.
– There were 3 witnesses (for the prosecution) out of 10 in total, were present at the trial. When questioned by the defence, the prosecutor could not present any written statement from the rest of the witnesses asking to be excused from trial. So these 3 witnesses were the only “evidence” used in court that morning to find the defendants guilty of their offences.
– The evidence in regard to “propaganda” and “causing serious damage to national security” were not presented nor disclosed in any way by the prosecution, despite the repeated requests from the defence.
– The whole trial lasted 5.5 hours for a guilty sentence that must have been pre-calculated to push my dad over the average age of life expectancy in Vietnam: 70 years.
There were too many thoughts inside my head that I was still trying to process, so instead of showing my anger, I just kept walking in silence. The bystanders in the street seemed to have regained a little of their sensitivity and concerns, they now pointed at me, talked among themselves and laughed at us. I remained half-naked and came home with my mom while the grey sky was getting ready to downpour its evening rain.
– Vấn đề bức xúc của người dân tại trạm BOT Cai Lậy chưa được giải quyết xong thì hiện nay một trạm thu phí BOT khác ở miền Tây cũng bị phản ứng vì đặt sai vị trí.
Đi rửa xe cũng bị thu phí
Theo tìm hiểu của VietNamNet, dự án đầu tư xây dựng công trình cải tạo, nâng cấp QL91 qua địa phận TP Cần Thơ do Công ty Cổ phần Đầu tư QL91 Cần Thơ – An Giang làm chủ đầu tư. Dự án có hai phân đoạn gồm: QL91 đoạn Km14+00 (giao QL91B) đến Km50+889 và QL91B đoạn Km0+000 đến Km 15+793. Tổng mức đầu tư hơn 1.720 tỉ đồng.
Trên dự án có 2 trạm thu phí gồm trạm T1 được đặt tại Km16+905,83 QL91 và trạm T2 được đặt tại Km50+050 thuộc khu vực Thới Hòa 1, phường Thới Thuận, quận Thốt Nốt – giáp ranh tỉnh An Giang.
Ngay sau khi trạm T2 bắt đầu thu phí đã bị các doanh nghiệp vận tải, tài xế…phản ứng dữ dội do vị trí đặt trạm bất hợp lý.
Anh Vũ Lâm, tài xế xe tải chuyên chở cá từ Kiên Giang về Long Xuyên (An Giang) bức xúc cho biết, trạm thu T2 đặt ở vị trí hiện tại là có tính tận thu.
“Mỗi lượt đi, xe của tôi chỉ sử dụng khoảng 200m của tuyến QL 91 vậy mà cũng phải trả phí như đi đầy đủ tuyến. Đặt trạm kiểu đó là “bóp cổ” chúng tôi rồi”, nam tài xế này nói và cho biết, trạm T2 hiện nay đang được đặt tại vị trí yết hầu của TP Cần Thơ, An Giang và Kiên Giang nhằm tận thu phí của người dân.
Còn anh Minh Tuấn, chủ 1 doanh nghiệp vận tải cho biết: “Tôi có 10 chiếc xe tải, hàng ngày vận chuyển hàng qua trạm BOT T2 để rẽ vào QL 80 đi Kiên Giang. Mỗi chiếc xe đi trên dự án chưa được 200 mét nhưng vẫn phải đóng 140.000 đồng/lượt qua trạm là kiểu thu không thể chấp nhận được”, anh Tuấn nói và chỉ ra điều bất hợp lý nữa là trạm T1 và T2 cách nhau chỉ khoảng 40km, trong khi theo quy định là 70km. Đặc biệt là dự án này chỉ được sửa chữa, nâng cấp chứ không phải đầu tư mới.
Ông Nguyễn Ngọc Xuân – Chủ tịch Hiệp hội vận tải ôtô tỉnh An Giang cho biết, từ tháng 4/2016, khi thấy dựng trạm thu phí T2, Hiệp hội đã nhiều gửi văn bản kiến nghị Bộ GTVT, UBND về việc đặt trạm tại đây là quá bất hợp lý.
“Xe từ TP Long Xuyên (An Giang) vào QL 80 để đi TP Rạch Giá (Kiên Giang) chỉ sử dụng chưa được 200m đường quốc lộ 91 cũng bị thu phí 100% như các xe đi toàn tuyến QL 91. Thậm chí một số tài xế, doanh nghiệp đi rửa xe, đổ xăng cũng bị thu phí. Chính vì vậy theo tôi cách đặt trạm như thế này rất không ổn chút nào”, ông Xuân thất vọng nói.
Trước việc trạm T2 trên QL91 đặt “sai” vị trí, Sở GTVT tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hiệp Hội vận tải ô tô An Giang và doanh nghiệp trên địa bàn đã gửi văn bản kiến nghị đến các cơ quan Trung ương và địa phương.
Trạm T2 không có trong dự án?
Trong văn bản gửi Bộ GTVT, Sở GTVT tỉnh An Giang cho rằng, tuy dự án đầu tư trên địa phận TP Cần Thơ nhưng trong quá trình thẩm định dự án ban đầu, Bộ GTVT có mời Sở GTVT tỉnh An Giang dự họp. Tại cuộc họp vào ngày 1/11/2013, Bộ chỉ thống nhất đặt một trạm thu phí tại khoảng Km14+770, không có trạm thứ hai tại Km50+050 (T2 – PV) như hiện nay.
“Khi trạm T2 đi vào hoạt động, nhân dân và doanh nghiệp phản ứng gay gắt, vì phương tiện tham gia giao thông trên QL 80 qua đoạn QL 91 khoảng 750 mét (tuyến trùng giữa QL 91 và QL80), nhưng phải đóng phí như đi trên toàn tuyến, rất bất hợp lý”, văn bản của Sở GTVT tỉnh An Giang gửi Bộ GTVT phản ánh về vị trí trạm BOT T2 trên QL 91.
Trước sự bức xúc trên, ngày 6/6/2017, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật gửi công văn cho các địa phương, chủ đầu tư dự án yêu cầu giảm 100% giá vé qua trạm T2 cho các loại xe bus, xe khách phục vụ vận chuyển hành khách công cộng chạy tuyến cố định sử dụng quãng đường BOT theo hướng từ Kiên Giang (QL 80) về An Giang (QL 91) và ngược lại.
Miễn giảm 100% giá vé qua trạm T2 cho các phương tiện các phương tiện của người dân sinh sống có hộ khẩu thường trú trong phạm vi lân cận trạm thu phí.
Công văn này cũng nêu rõ, giao nhà đầu tư, DN dự án phối hợp với cơ quan liên quan chỉ đạo rà soát, khảo sát tiếp tục nghiên cứu đề xuất về phương án di dời, đánh giá toàn bộ dự án…nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng, phù hợp với quy định pháp luật khi di dời trạm, sớm báo cáo Bộ GTVT xem xét.
Yêu cầu di dời ngay trạm thu phí T2
Tuy nhiên, vấn đề mà các doanh nghiệp và người dân quan tâm là trạm T2 có phải di dời hay không thì đến nay vẫn chưa rõ.
Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Văn Nưng – Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật đã ký văn bản thống nhất sẽ dời trạm T2 nhưng thời gian cụ thể thì chưa thông báo.
Còn ông Nguyễn Ngọc Xuân – Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô An Giang cho biết, sẽ gửi văn bản đến Quốc hội, Thủ tướng, Bộ GTVT…kiến nghị yêu cầu phải di dời trạm thu phí BOT T2 trên QL 91.
Ông Xuân cho rằng, Hiệp hội rất hoan nghênh việc miễn 100% mức thu phí qua trạm T2 cho xe bus, xe tuyến cố định chạy tuyến Long Xuyên – Rạch Giá.
“Tuy nhiên, hiện nay còn rất nhiều phương tiện đường bộ của An Giang như xe hợp đồng, xe container, taxi…cũng sử dụng một quãng đường ngắn của QL91 để vào QL 80 và ngược lại nhưng vẫn bị thu phí.
Để hợp tình hợp lý nhất, đề nghị ngành chức năng di dời trạm T2 như văn bản do Thứ trưởng Nguyễn Nhật ký gửi Đoàn Đại biểu QH tỉnh An Giang. Ngoài ra, việc di dời cũng nên xác định thời gian cụ thể, nhất là cầu Vàm Cống sắp hoàn thành và đi vào hoạt động. Lúc đó, trạm T2 chưa di dời thì mỗi xe phải trả 2 lần phí”, ông Xuân nói và cho biết, hiện nay bức xúc của người dân đã lên đến đỉnh điểm, có thể sẽ phản ứng như cách làm tại trạm BOT Cai Lậy.
Sau khi ông Nguyễn Minh Hùng, tổng giám đốc VN Pharma mua tặng cho gia đình bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến căn biệt thự rộng 500 m2 (trị giá 60 tỉ đồng, đứng tên ông Hoàng Quốc Cường, con trai bà Tiến, ngay liền kề phía sau với căn biệt thự số 177 Nguyễn Văn Hưởng nơi gia đình bà Nguyễn Thị Kim Tiến đang sinh sống), Công ty VN Pharma đã nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của gia đình bà Bộ trưởng.
Để đảm bảo cho mối quan hệ làm ăn khăng khít, lâu dài, gia đình bà Bộ trưởng đã cử ông Hoàng Quốc Dũng, là em trai của ông Hoàng Quốc Hòa, chồng bà Tiến, tham gia Ban Lãnh đạo Công ty VN Pharma. Để đánh lừa dư luận, ông Hoàng Quốc Dũng chỉ đứng tên đăng ký số cổ phần ít ỏi là 10.000 cổ phần với mã cổ đổng là VN042, nhưng lại nhận được số tiền chia lợi tức khổng lồ 24% danh thu bán hàng của Công ty VN Pharma.
Với sự tham gia của gia đình bà Bộ trưởng Bộ Y tế, chỉ trong vòng gần 3 năm từ khi mới thành lập, Công ty VN Pharma gần như đã nuốt trọn thị phần đấu thầu thuốc trong các bệnh viện công lập từ Trung ương đến địa phương. Công ty VN Pharma thành lập ngày 25/10/2011 tại 666/10/3 đường 3/2, phường 14, Quận 10, Tp HCM với số vốn điều lệ chỉ 40 tỷ đồng, tháng 10 năm 2014 đã nâng vốn lên là 68 tỷ đồng, doanh số bán thuốc của Công ty tăng một các khủng khiếp, từ con số 0 năm 2011, đến năm 2013 doanh số Công ty sau khi hợp nhất là 971 tỷ đồng, năm 2014 là 1.077 tỷ đồng (trên thế giới này không có một công ty nào có thể phát triển nhanh như vậy và với nguồn vốn thấp như vậy, nếu bạn đã từng bán chỉ vài bộ quần áo cũng hiểu rằng không thể vốn 40 tỷ, mở công ty chỉ sau 1 năm mà doanh thu từ số 0 lên đến 1077 tỷ được).
Đỉnh điểm cho sự tham gia đắc lực của bà Nguyễn Thị Kim Tiến là doanh số trúng thầu trong đấu thầu thuốc cao khủng khiếp năm 2014 của công ty Cổ phần VN Pharma (và hệ thống Công ty con của VN Pharma: Công ty TNHH MTV dược Nam Anh, Công ty CP Dược phẩm Nam Hùng, Công ty TNHH MTV dược phẩm VN Pharma, Công ty Cổ phần dược Đại Nam Tp HCM, Công ty Đại Nam Hà Nội).
Cụ thể như sau:
– Trúng thầu tại Sở Y tế Tp HCM năm 2014 là 488 tỉ đồng
– Trúng thầu tại Bệnh viện Chợ Rẫy là 120 tỉ đồng
– Trúng thầu tại Bệnh viện Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh là 40 tỷ đồng
– Trúng thầu tại Bệnh viện Bạch Mai là 21 tỷ đồng
– Trúng thầu tại Bệnh viện Trung ương Huế là 20 tỷ đồng
– Trúng thầu tại Bệnh viện Thống Nhất là 8 tỷ đồng
– Trúng thầu tại các Sở Y tế từ 1-2 tỷ đồng đối với các Sở Y tế nhỏ, đến 20-30 tỷ đồng đối với các Sở Y tế đấu thầu nhiều.
Độc quyền ăn khủng như vậy chưa đủ, bây giờ còn lòi ra là công ty này chuyên buôn bán thuốc giả. Mà VN Pharma lại là công ty trúng thầu thuốc chính của Sở Y tế cả nước, vậy là bệnh nhân mua thuốc ở ngay tại hiệu thuốc bệnh viện cũng là thuốc giả, dẫn đến bao nhiêu người tiền mất tật mang? Bao nhiêu người chết oan? Nhà nước XHCN tự tay bán thuốc giả cho dân có còn chối được không?
Ngày 11/11/2015, Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an đã có văn bản số 989/ANĐT(P6) gửi Đồng chí Bộ trưởng Bộ Y tế về việc làm rõ trách nhiệm của Đồng chí Bộ trưởng trong việc nhập khẩu cấp phép nhập khẩu thuốc H-Capita cho Công ty VN Pharma.
Cơ quan an ninh điều tra, Bộ Công an khởi tố, điều tra vụ án “Nguyễn Minh Hùng, Võ Mạnh Cường cùng đồng bọn buôn lậu thuốc chữa bệnh”, xảy ra tại Công ty VN Pharma, Tp. Hồ Chí Minh (Điều đáng nói đây là một vụ án kinh tế nhưng không phải do Cục Cảnh sát kinh tế – Bộ Công an (C46) điều tra mà được giao Cục An ninh Chính trị nội bộ (A83) và Cục An ninh điều tra – Bộ Công an (A92) trực tiếp điều tra phá án, như vậy đây không đơn thuần là một Vụ án kinh tế thông thường mà lý do chúng tôi sẽ nói ở những phần sau). Văn bản Bộ Công an cũng cho biết “đây là vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và an toàn sức khoẻ con người được dư luận xã hội quan tâm”.
Kết quả điều tra đến nay xác định: Ngày 30/10/2013, Công ty cổ phần VN Pharma đã nộp Đơn hàng nhập khẩu thuốc thành phẩm chưa có số đăng ký số 225/ĐH/VNP-XNK và hồ sơ kèm theo đến Cục Quản lý Dược Bộ Y tế, đề nghị cấp phép nhập khẩu 200.000 hộp thuốc H-Capita (trên đơn hàng ghi Công ty sản xuất là Helix Pharmaceuticals Inc., Canada – Helix Canada; Công ty cung cấp thuốc là Austin Pharma Specialties Co. Hồng Kông – Austin Hồng Kông). Ngày 30/12/2013, Cục Quản lý Dược Bộ Y tế đã cấp Giấy phép nhập khẩu số 22113/QLD-KD đồng ý cho Công ty VN Pharma được nhập khẩu thuốc H-Capita theo đơn hàng trên sau khi có sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Y tế. Tuy nhiên qua điều tra đã phát hiện tại thời điểm Bộ Y tế cấp phép cho đơn hàng trên của Công ty VN Pharma (20/12/2013) thì Công ty cung cấp thuốc là Austin Hồng K ông đã hết hạn giấy phép hoạt động về thuốc tại Việt Nam (Giấy phép số 08/GP-2011/03 chỉ có thời hạn từ ngày 06/10/2011 đến ngày 06/10/2013). Qua điều tra Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an, cũng đã xác định tại Canada không có nhà sản xuất thuốc Helix Pharmaceuticals Inc., Canada.
Ngoài ra liệu Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an, cũng đã chứng minh được: Công ty VN pharma có sự tham gia của gia đình bà Nguyễn Thị Kim Tiến (Bộ trưởng Bộ Y tế) ông Hoàng Quốc Dũng (em trai của chồng bà Nguyễn Thị Kim Tiến) đứng tên cổ phần trong Công ty VN Pharma với vai trò là Phó Tổng giám đốc phụ trách mảng đối ngoại và quan hệ với các bệnh viện (thực chất chức vụ này là dùng ảnh hưởng của bà Bộ trưởng để đi móc nối và ép các bệnh viện cho công ty VN Pharma trúng thầu thuốc, số tiền trúng thầu khủng khiếp từ các bệnh viện chúng tôi sẽ cung cấp trong các bài viết sau).
Ông Hoàng Quốc Cường (con trai bà Nguyễn Thị Kim Tiến) với vai trò là cố vấn của Công ty (Có quyết định bổ nhiệm ông Hoàng Quốc Dũng làm Phó tổng giám đốc Cty VN Pharma). Ông Hoàng Quốc Dũng đứng tên cổ phẩn trong công ty VN Pharma: 10.000 cổ phần (mã cổ đông là VN042). Đây chỉ là những cổ phần ghi danh, còn thực chất số cổ phần ông Hoàng Quốc Dũng đứng tên cho gia đình bà Bộ trưởng lớn hơn rất nhiều.
Qua xem xét bảng lương của Công ty VN Pharma chúng tôi thấy, hàng tháng ông Hoàng Quốc Dũng nhận lương của Công ty với vai trò Phó Tổng giám đốc 30 triệu đồng, ngoài ra còn nhận được rất nhiều tiền thưởng vào các đợt nghỉ lễ, như đợt 02/9/2014 là 40 triệu đồng. (Có bảng lương của Công ty VN Pharma từ tháng 12/2013 đến tháng 12/2014 có chữ ký nhận của ông Hoàng Quốc Dũng).
Ngoài ra ông Hoàng Quốc Dũng còn đứng ra nhận tiền thay cho ông Hoàng Quốc Cường với vai trò là cố vấn Công ty VN pharma (33 triệu đồng/ hàng tháng). (Có bảng lương của Công ty VN Pharma với chữ ký nhận của ông Hoàng Quốc Dũng). Mặc dù chỉ đứng tên chính thức 10.000 cổ phần của Công ty VN Pharma nhưng riêng năm 2014 ông Hoàng Quốc Dũng (đứng tên cho gia đình bà Tiến) đã nhận chia cổ tức từ Công ty VN Pharma với tỷ lệ 24% tổng doanh số của VN Pharma, đây là một số tiền khổng lồ nếu so với danh thu của Công ty VN Pharma năm 2013 và 2014.
Ngoài những khoản lương hàng tháng và lợi tức chia cổ phần khổng lồ, để ghi nhận sự đóng góp cho Công ty VN Pharma, ông Hùng (Tổng giám đốc VN Pharma) còn đứng ra trả tiền mua cho gia đình bà Nguyễn Thị Kim Tiến một căn biệt thự rộng 500m2 trị giá gần 60 tỉ đồng tại khu biệt thự Thảo Điền, Quận 2 (đây là ngôi biệt thự liền kề ngay sau biệt thự của nhà Bà Bộ trưởng tại số 177 Nguyễn Văn Hưởng) (Có ảnh kèm theo).
Bài sau chúng tôi sẽ đưa ra những bằng chứng tại sao Công ty VN Pharm trúng thầu các bệnh viện khủng khiếp thế và tại sao ông Nguyễn Minh Hùng tổng giám đốc VN Pharma sẵn sàng mua tặng cho gia đình bà Bộ trưởng 1 căn biệt thự rộng 500m2 với giá gần 60 tỉ đồng, để cho ông Hoàng Quốc Cường con trai Bà Bộ trưởng đứng tên.
Ông Trần Ðại Quang, chủ tịch nước CSVN, nhân vật đang được đồn đoán là “sang Nhật chữa bệnh” từ tối 25 Tháng Bảy 2017, và cho đến nay chưa có hình ảnh hay video clip nào cho thấy ông xuất đầu lộ diện.
Tuy nhiên hệ thống truyền thông nhà nước ở Việt Nam hôm 20 Tháng Tám đồng loạt đưa lên một bài viết với tựa đề “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong tình hình mới,” cuối bài đề tên tác giả là “Giáo Sư, Tiến Sĩ Trần Ðại Quang, ủy viên Bộ Chính Trị, chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam.”
Toàn văn bài viết được Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) và trang tin ‘chinhphu.vn’ phổ biến dài 2,561 từ qua đó thúc giục các ngành cấp dưới siết chặt hơn nữa hệ thống Internet nhằm đối phó với “phản động” trong và ngoài Việt Nam.
Trang ‘chinhphu.vn’ nói ông Quang viết bài này nhân dịp “Kỷ niệm 72 năm Ngày Truyền Thống Công An Nhân Dân (19/8/1945- 19/8/2017).” Hệ thống báo chính thống của Việt Nam khi đồng loạt đăng lại bài viết này đều dùng những hình ảnh cũ của ông Quang chêm vào. Mục đích bắn tiếng phản bác lại các lời đồn thổi từ Trần Ðại Quang bí mật đi Nhật chữa bệnh đến bị cô lập, quản thúc đâu đó tại Việt Nam.
“Ngày Truyền Thống Công An Nhân Dân” mà ông Trần Ðại Quang vốn là bộ trưởng Bộ Công An hàm đại tướng trước khi được đôn lên làm chủ tịch nước, theo lẽ thường, ông phải tới Bộ Công An, dự một cái lễ, tuyên bố dăm bảy câu, gắn vài cái huy chương cho báo đài quay phim chụp hình để tuyên truyền. Năm nay hoàn toàn không thấy mặt ông mà chỉ thấy ông thủ tướng đi “dâng hương” ở lăng ông Hồ.
Nội dung trong bài viết ký tên Trần Ðại Quang không cho thấy điều gì có gì mới mẻ, nặng tính tuyên truyền đổ lỗi cho thế lực thù địch dùng facebook và các mạng xã hội khác “tác động tiêu cực tới tư tưởng, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân; gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ, làm suy giảm lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của đảng, nhà nước.”
Tuy nhiên điều mà người ta chờ đợi nhìn thấy và nghe thấy hình ảnh hay tiếng nói của ông Quang để chứng minh rằng ông vẫn đang khỏe mạnh và làm việc, vẫn không hề thấy trong nội dung các bản tin hay bài viết.
Trước cái bài viết ra lệnh siết Internet, và trong khi xuất hiện tin đồng ông Quang “sang Nhật chữa bệnh,” TTXVN lai rai đăng tin ông chủ tịch nước gởi thư chúc mừng quốc khánh nước này nước kia để chứng tỏ ông ấy làm nhiệm vụ bình thường, chẳng đi đâu, chẳng bệnh tật. Tuy nhiên, người ta biết việc đó không phải ông chính tay làm mà là một bộ phận ngoại giao chuyên về hiếu hỉ hình thức làm chuyện đó.
Lâu nay, việc hô hào siết mạng Internet để đối phó với các “tổ chức phản động” trong ngoài nước ngày đêm chống phá chế độ, vẫn do cái Bộ Thông Tin-Truyền Thông phụ trách qua các quyết định, bên trên thì có ông thủ tướng ký nghị định, không tới tay ông chủ tịch nước. Thành thử, bài viết “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong tình hình mới” làm lộ ra người viết là một tay bồi bút được giao nhiệm vụ khua gõ để thiên hạ tưởng lầm là chính ông đại tướng chủ tịch nước viết.
Nếu ông Trần Ðại Quang không bịnh hoạn nghiêm trọng hoặc không bị “quản thúc” trong cuộc đấu đá nội bộ như ‘lũ phản động’ xấu mồm xấu miệng bôi bác, chỉ cần đưa tí hình ảnh, video clip “chủ tịch nước đi dự lễ” bỏ lên một số trang mạng “lề phải” là thiên hạ hết đồn thổi ngay. Cố bưng bít, cố bịp, nhưng lại “lộ hàng” nên chẳng lừa được ai cả.
Bài viết bù lu bù loa “…các thế lực thù địch, tội phạm mạng gia tăng hoạt động tấn công mạng nhằm thu thập thông tin, bí mật nhà nước, bí mật nội bộ, chiếm quyền điều khiển, phá hoại hệ thống mạng thông tin; sử dụng Internet, nhất là các trang mạng xã hội với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt nhằm gây chia rẽ nội bộ, xâm phạm lợi ích, an ninh quốc gia. Hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ trên không gian mạng của các thế lực thù địch diễn ra với quy mô, cường độ ngày càng lớn, có trọng tâm, trọng điểm; sử dụng các trang mạng, blog liên tục đăng tải các bài viết có nội dung xấu, độc hại; tổ chức các chiến dịch công kích, bôi nhọ nhằm hạ uy tín của lãnh đạo đảng, nhà nước…”
Chỉ từ đầu năm đến nay, chế độ “dân chủ đến thế là cùng” ở Hà Nội đã bắt ít nhất 17 người, cáo buộc họ “hoạt động lật đổ…” đến “tuyên truyền chống nhà nước…” hoặc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ…” Hà Nội cũng thúc ép mạng Google, Youtube, Facebook phải xóa bỏ những clip thời sự xảy ra tại Việt Nam mà nhà cầm quyền cho là bôi bác chế độ.
Bây giờ, hô hào siết chặt hơn nữa mạng Internet thì có cách hay nhất là dẹp bỏ nó luôn thôi. Nhưng nếu dẹp chúng thì các công ty quốc doanh độc quyền cung cấp dịch vụ mạng sẽ mất mối, lấy tiền đâu để nuôi chế độ. Nhà cầm quyền Việt Nam chỉ cón cách là hô hào siết mãi, bỏ tù thêm nhiều người hơn, bản án nặng hơn. Càng tàn ác hơn thì lại càng cho thiên hạ thấy nhà cầm quyền chỉ lo bảo vệ chế độ độc tài cực kỳ tham nhũng và thối nát mà thôi, chứ không phải “của dân, do dân và vì dân” như tuyên truyền.
Một trăm bài viết “Tăng cường công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong tình hình mới” cũng vẫn không làm cho người ta sợ khi mà các ông vẫn “kiên định” con đường XHCN. Hay có thêm một trăm bài khác ký tên Trần Ðại Quang cũng không đánh tan được sự nghi ngờ của dư luận về tông tích chủ tịch nước.
Thiên hạ ai cũng biết bưng bít sự thật, tuyên truyền bịp bợm là sở trường của đảng CSVN.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản đầu năm 2016, sau khi loại được Nguyễn Tấn Dũng một cách ngoạn mục, Nguyễn Phú Trọng đã tiếp tục được giữ chức Tổng Bí thư thêm một nhiệm kỳ nữa, dù ông đã quá tuổi hưu theo như qui định.
Ông Trọng sau đó mở chiến dịch diệt tham nhũng với quyết tâm mạnh mẽ hơn, vì từ mấy chục năm qua tệ nạn này đã lan tràn trong mọi cơ quan, ban ngành và làm ruỗng mục hệ thống, suy đồi xã hội.
Trong 5 năm giữ chức Tổng Bí thư trước đó, ông Trọng không có những quyết tâm như sau khi được chọn ở lại thêm một nhiệm kỳ.
Vụ tham nhũng đầu tiên được ông nhắm đến là Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang, cũng là Đại biểu Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Công thương Trịnh Xuân Thanh. Ông Thanh bị cáo buộc làm thất thoát tài sản nhà nước lên đến gần 4 nghìn tỉ đồng, khoảng 150 triệu đôla, trong thời gian công tác tại Tổng Công ty Xây lắp Dầu khí.
Cho đến khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không còn nắm quyền và không còn ở trong Bộ Chính trị thì con đường tiến thân trong chính trường của Trịnh Xuân Thanh bắt đầu đi xuống và những việc làm trong quá khứ của ông là chủ điểm của những cuộc điều tra về tham nhũng.
Khi quá trình điều tra đang được tiến hành, Trịnh Xuân Thanh trốn ra nước ngoài.
Sự việc ông Thanh trốn thoát đã làm Tổng Bí thư Trọng mất mặt và nhiều người nghi ngờ quyết tâm bài trừ tham nhũng của giới lãnh đạo Việt Nam.
Cũng như trước đây với vụ Dương Chí Dũng làm thất thoát tài sản của Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), rồi cũng trốn ra nước ngoài, sau bị bắt, ra toà bị án tử hình và bồi hoàn nhiều tỉ đồng cho nhà nước. Cho tới nay bản án tử hình vẫn chưa được thi hành.
Liên quan đến vụ án Dương Chí Dũng có những sĩ quan cao cấp ngành công an bị cáo buộc đã nhận tiền hối lộ, trong đó có Thượng tướng Phạm Quý Ngọ là Thứ trưởng Bộ Công an, nhưng ông Ngọ đã bất ngờ qua đời.
Dương Chí Dũng trốn qua một nước trong khối ASEAN, sau đó bị bắt đem về nước, đưa ra xét xử. Nhưng tham nhũng đã lên đến cấp lãnh đạo cao cấp nào thì cũng mới dừng lại ở cấp trung, còn Thứ trưởng Công an Phạm Quý Ngọ chết bất ngờ trước khi xử nên đường dây cũng dừng lại ở đó.
Trịnh Xuân Thanh trốn sang Đức từ tháng 8/2016 và hai tuần trước đã bị tình báo Việt Nam bắt cóc từ Thủ đô Berlin. Hôm 30/7 vừa qua Bộ Công an ra thông báo nói ông Thanh tự nạp mình “đầu thú” ở Hà Nội.
Hai ngày sau đài VTV-1 đưa tin, hình ảnh và tờ đơn xin tự thú của ông Thanh. Vẻ mặt ông phờ phạc và đầy lo âu hơn những hình ảnh ông chụp tươi cười ở Đức đã được người thân quen phổ biến.
Tin từ báo Việt ngữ thoibao.de ở Đức đưa ra và sau đó bộ ngoại giao Đức cũng cho biết ông Thanh đã bị bắt cóc đem về Việt Nam trong khi đang tiến hành thủ tục xin tị nạn.
Việc bắt cóc người như thế là vi phạm nghiêm trọng luật lệ Đức nên chính phủ nước này đã trục xuất nhân viên ngoại giao đặc trách tình báo tại Đại sứ quán Việt Nam và đòi Hà Nội trả ông Thanh về lại Đức để thủ tục xin tị nạn của ông, cũng như đòi hỏi di lý Trịnh Xuân Thanh của Hà Nội được xem xét theo trình tự của pháp luật Đức.
Ông Thanh trốn ra được nước ngoài đã làm mất mặt Tổng Bí thư Trọng và phía Việt Nam đã biết ông đang ở Đức nên trong chuyến đi tham dự bên lề Hội nghị G-20 tại Hamburg vào đầu tháng 7 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi gặp Thủ tướng Angela Merkel cũng đã yêu cầu Đức trao trả ông Thanh.
Vì không có hiệp ước di lý tội phạm giữa Đức và Việt Nam, còn Hà Nội không chờ được lâu nữa nên đã cho an ninh bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào sáng ngày 23/7 từ một công viên ở Thủ đô Berlin, đưa qua một nước láng giềng rồi đem về Hà Nội.
Vụ bắt cóc người đã làm căng thẳng ngoại giao hai nước khiến cơ quan lãnh sự của Đại sứ quán Đức ở Hà Nội từ hôm 3/8 phải đóng cửa “do sự cố kỹ thuật” cho đến khi có thông báo mới.
Có được Trịnh Xuân Thanh trong nhà giam, Tổng Bí thư Trọng mạnh tay hơn nữa trong chủ trương chống tham nhũng.
Đáng chú ý là trong những ngày qua Trầm Bê, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị của ngân hàng Sacombank, và cả chục lãnh đạo các ngân hàng khác đã bị bắt giam vì những khoản tiền cho vay bừa bãi khiến nhiều ngân hàng sụp đổ tài chánh.
Ông Bê được giới am hiểu tình hình chính trị Việt Nam cho là người thân tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từ khi còn đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo nhà nước.
Một lãnh đạo khác cũng đã vào tầm nhắm của chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tổng Bí thư Trọng là Thứ trưởng Bộ Công thương Hồ Thị Kim Thoa. Bà Thoa vừa xin thôi việc tại cơ quan từ ngày 1/8, trong khi đang bị Ban Kiểm tra Trung ương điều tra về những sai phạm khi bà làm chủ Công ty Bóng đèn Điện Quang từ năm 2004 đến 2010.
Nếu những vụ án trên được đưa ra xét xử, việc tham nhũng và nhận hối lộ sẽ lên đến mức nào trong giới lãnh đạo Việt Nam, hiện tại cũng như quá khứ.
Các dấu chỉ cho thấy nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gia đình cũng có thể sẽ là bị cáo, vì Trương Xuân Thanh, Hồ Thị Kim Thoa hay Trầm Bê là những người đã giầu lên rất nhanh và cũng đã nắm giữ những chức vụ cao trong cơ cấu chính quyền dưới thời ông Dũng làm thủ tướng.
Nếu ông Trọng không rốt ráo trong việc chống tham nhũng thì những ồn ào trong hai tuần qua cũng chỉ là để che đậy sự yếu kém của Đảng Cộng sản Việt Nam trước sự bành trướng của Bắc Kinh ngoài Biển Đông.
Hơn một tuần trước, vì sức ép của Trung Quốc nên Việt Nam đã phải yêu cầu công ty dầu khí Repsol của Tây Ban Nha ngưng thăm dò và rút giàn khoan ra khỏi lô 136-3, trong khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà Bắc Kinh cho là nằm trong đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc.
Sự kiện này được Bill Hayton của đài BBC đưa ra và các chuyên gia về Việt Nam sau đó cũng xác nhận Trung Quốc đã ép Việt Nam không được khai thác, nếu không Bắc Kinh sẽ dùng vũ lực ở Trường Sa.
Ông Hayton còn cho biết thêm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch là hai ủy viên Bộ Chính trị không muốn phản đối đòi hỏi của Trung Quốc nên đã yêu cầu công ty Repsol ngừng khoan dầu trong lô 136-3.
Hôm 2/8 ông Miguel Martinez của công ty Repsol xác nhận giàn khoan ở đó đã ngưng hoạt động.
Lúc này chuyện chống tham nhũng với tuyên bố thể hiện quyết tâm gần đây của ông Trọng: “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng cháy” được truyền thông chính thống thổi bùng lên, còn chuyện rút giàn khoan dầu ngoài Biển Đông hầu hết các báo đều không đưa tin.
Qua những gì đọc được trên mạng xã hội, nhiều người hồ hởi với việc Trịnh Xuân Thanh đã vào tay công an và không cho quan hệ Đức-Việt quan trọng hơn việc ông Thanh được đem về nước. Họ lạc quan tin tưởng những gì ông sẽ khai, để từ đó những kẻ tham nhũng sẽ bị trừng trị.
Đa số dân Việt đã mệt mỏi với tham nhũng và muốn giới lãnh đạo có quyết tâm bài trừ.
Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng biên tập báo Thanh Niên, hôm 17/7 có viết trên FB về tệ nạn tham nhũng lan sâu và cao trong tầng lớp lãnh đạo và đã có gần 3,500 người thích, 650 lượt chia sẻ và 150 bình luận:
“… Nếu phát hiện ra những hành vi tham nhũng được hình thành từ những nhóm lợi ích có dây mơ, rễ má dù cho nó xuất phát từ đâu và mạnh tới cỡ nào. Dù nó có mạnh tiến như quân Nguyên cũng không thể lọt lưới của nền pháp trị mà chúng ta phải xây dựng trên nguyên tắc của một Nhà nước pháp quyền. Không ai có quyền đứng trên luật pháp. Nếu có một quyết tâm cao độ như vậy, thì chúng ta sẽ làm được tất cả. Làm được như vậy, nhân dân sẽ công nhận lòng yêu nước của những người cầm quyền hiện nay là có thật…”
“Không biết tôi có lạc quan ‘quá trớn’ không vậy, mọi người?”
Ông Khế quá lạc quan. Đảng Cộng sản kêu gọi chống tham nhũng từ mấy chục năm qua, nhưng đảng lại đứng trên cả Hiến pháp thì mong gì có một nhà nước pháp quyền hay pháp trị ở Việt Nam.
Bao giờ có thay đổi thể chế để tiến đến một nền dân chủ pháp trị thì mới hy vọng tham nhũng sẽ bớt đi nhiều để đất nước có cơ hội phát triển nhanh hơn.
Tác giả dạy đại học cộng đồng và hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.
Cái tên Trịnh Xuân Thanh (TXT) sẽ đi vào lịch sử. Song không phải vì tội “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, hay vì tội tham nhũng. Dù đã gây ra những hậu quả rất tệ hại, nhưng trong hàng ngũ các đồng chí thi đua phá phách – vơ vét, thì tầm vóc của Thanh vẫn còn khá khiêm tốn. So với các đại ca thì Thanh mới như “trẻ nhỏ đua đòi”. Còn so với mấy bố già thì Thanh càng chưa thể sánh ngang vai trên con đường hại dân hại nước. Bởi thế, khi các đại ca và bố già vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, thậm chí còn vắt vẻo trên đỉnh cao quyền lực, thì chắc Thanh cũng khó cam lòng “đầu thú”.
Hình chụp ông Trịnh Xuân Thanh, không rõ ngày tháng, tại một công viên ở Đức. AFP photo
Thiên hạ sẽ dùng tên TXT để đề cập một diễn biến hiếm có trong lịch sử ngoại giao, mà đọng lại là hình hài đích thực của kiểu pháp quyền sản xuất tại Việt Nam. Vốn dĩ, thi hành công vụ kiểu giang hồ là chuyện thường ngày ở xứ “dân chủ vạn lần tư bản”. Song lần này đặc sản “luật rừng” được xuất khẩu sang khối Cộng đồng chung Châu Âu, và công diễn giữa trung tâm Thủ đô Berlin của Cộng hòa Liên bang Đức.
Sau mười ngày điều tra và cân nhắc thận trọng, ngày 2/8/2017 Bộ Ngoại giao CHLB Đức đã ra thông cáo báo chí, trong đó khẳng định:
“Việc bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh trên lãnh thổ Đức là sự vi phạm trắng trợn chưa từng có đối với luật pháp Đức và luật pháp quốc tế.”
“Chính phủ Liên bang Đức đòi hỏi, rằng ông Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức, để cả đề nghị dẫn độ và đơn xin tỵ nạn đều có thể được xem xét đến cùng đúng theo trình tự pháp lý.”
“Liên quan đến phát biểu của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Đức xung quanh vụ việc Trịnh Xuân Thanh, tôi lấy làm tiếc về phát biểu ngày mùng 2 tháng 8 của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Đức.”
Vâng, “tiếc” về “phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Đức”.Như thể phật ý, vì phát biểu của phía Đức có điều gì sai trái, hay không hợp lý. Khi phóng viên nước ngoài hỏi “Việt Nam có xác nhận lời cáo buộc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh không”, thì bà Hằng trích dẫn:
“Theo thông báo ngày 31 tháng 7 của Bộ Công an Việt Nam thì ông Trịnh Xuân Thanh đã ra trình diện và đầu thú.”
“Hành vi của mật vụ Việt Nam trên lãnh thổ Đức là hoàn toàn không chấp nhận được. Tôi muốn nói hết sức rõ ràng rằng: Chúng tôi không bao giờ chấp nhận trò ấy, và cũng sẽ chẳng để yên việc ấy.”
Trong khi nhà cầm quyền Hà Nội làm thinh, thì dư luận người Việt trên thế giới ảo cực kỳ sôi động. Người thì phê phán chính quyền Hà Nội, người lại tỏ ra đồng tình. Số đồng tình dựa trên niềm tin chân chất, rằng việc bắt cóc TXT (nếu có) là cần thiết cho nỗ lực chống tham nhũng. Và rằng động cơ của thế lực ra lệnh bắt cóc TXT chỉ đơn thuần là nghiêm trị kẻ tham nhũng. Còn tính hợp pháp của hành vi bắt cóc ư? “Mục đích biện minh cho phương tiện.” Vả lại, “thế giới” cũng làm thế cả. Có điều, khi xòe tay điểm danh để chứng minh hùng hồn, rằng việc chính quyền một nước tổ chức bắt cóc ở nước ngoài vì mục đích tử tế là thông lệ quốc tế, thì chỉ duỗi được vài ngón. Còn ngón tiếp theo thì tần ngần, chẳng biết chỉ về đâu. Thử hỏi, bắt cóc kiểu ấy là hành xử bất thường của vài siêu cường, mà cộng đồng đành phải cắn răng chịu đựng? Hay của nhà nước đại diện cho dân tộc đã từng bị vùi dập trước sự làm ngơ của các cường quốc, tới mức hậu thế vẫn còn cảm thấy mắc nợ? Hay của mấy nhà cầm quyền mà thế giới văn minh phỉ nhổ?
Thật khó dung hòa giữa tư duy pháp quyền “vùng sâu vùng xa” với tư duy pháp quyền kiểu Đức. Vốn cả đời chung sống với luật rừng và tiếp xúc với lối hành xử giang hồ của quan chức bản địa, nên tưởng rằng như vậy mới hợp lẽ tự nhiên. Thành thử khó chấp nhận lối tư duy pháp lý xa lạ, máy móc của “bọn Tây”. Cũng giống như trai bản, quen đi rừng phạt cây mà tiến, nay lạc vào đô thành thì khó chịu với đèn đỏ đèn vàng, bởi cho rằng chúng cản trở giao thông.
Nếu những ý kiến ấy chỉ thể hiện tư duy quần chúng, thì phải tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của họ. Nhưng trong số đó có cả ý kiến từ giới luật sư. Với những lập luận pháp lý tưởng chừng rất vững chắc, nhưng tiếc rằng lại sai. Vì vậy, tôi viết bài này để trao đổi, với hy vọng làm rõ hơn một số cơ sở pháp lý của vụ việc, để từ đó mà hiểu đúng và có cách ứng xử hợp lý.
Nội dung tiếp theo được chia thành 5 phần.
Phần I, với tiêu đề “Hạn chế quyền lực trong nhà nước pháp quyền”, trình bày 3 vụ việc đặc biệt đã từng diễn ra ở CHLB Đức. Nhằm minh họa về sự hạn chế quyền lực đối với cơ quan đứng đầu nhà nước (I.1. Vụ cấm NPD hoạt động), đối với người thi hành công vụ (I.2. Vụ án Daschner), và khó khăn gặp phải trong việc dẫn độ (I.3. Vụ án Haikel S.) tại một nhà nước pháp quyền đích thực. Qua đó, có thể thấy ở Đức, không phải các cơ quan nhà nước (dù ở cấp cao nhất) muốn làm gì cũng được, mà phải nghiêm ngặt tuân theo những quy định của pháp luật. Từ đấy có thể hiểu và thông cảm với cách xử sự thận trọng của phía Đức đối với yêu cầu dẫn độ TXT. Hơn nữa, để đạt được hiệu ứng tâm lý, sẽ được viết trong phần I.4.
Phần II, với tiêu đề “Dẫn độ đâu dễ”, trình bày 4 điều kiện luật định của Liên bang Đức cho việc dẫn độ. Đó là điều kiện tương thích về tội danh (II.1), điều kiện không được kết án tử hình (II.2), điều kiện về xét xử công bằng (II.3), và cấm dẫn độ đối với hành vi liên quan tới chính trị (II.4). Phân tích sẽ chỉ ra ràng buộc pháp luật khiến phía Đức rất khó chấp nhận dẫn độ TXT.
Phần III, với tiêu đề “Xử sự trong hoàn cảnh khó xử”, trình bày một số trao đổi về cách xử sự phù hợp với hoàn cảnh khó khăn và một số đánh giá về cách ứng xử đã diễn ra trên thực tế.
Phần IV, với tiêu đề “Cách nào chữa cháy”, thảo luận về 4 phương án có thể áp dụng để giải quyết khủng hoảng hiện nay. Đó là “phương án kiên định nói thật” (IV.1), “phương án kiên định nói dối” (IV.2), “phương án thành khẩn hối lỗi” (IV.3), và “phương án cùng thắng” (IV.4).
Phần V, với tiêu đề “Mấy điều cần chốt lại”, viết mấy ý vắn tắt về quan điểm chống tham nhũng (V.1), đánh giá về vụ TXT (V.2), và mấy lời nhắn nhủ tới dư luận (V.3).
Bài viết này được trình bày theo phong cách của một công trình nghiên cứu. Nên chỉ phù hợp với những người có thể đầu tư thời gian đọc kỹ và nghiền ngẫm, để hiểu các thông điệp muốn gửi gắm. Nó nặng về lý luận, nên khô khan, không phù hợp với nhu cầu giải trí, hay chia sẻ cảm xúc. Bài viết không điểm lại diễn biến của sự kiện, cũng không trình bày lại các kết quả điều tra. Và không chỉ đóng khung trong vụ TXT. Chính vì vậy mới chọn tiêu đề “Một số điều cần trao đổi nhân vụ Trịnh Xuân Thanh“, chứ không phải “… về vụ Trịnh Xuân Thanh”.
Ngày 30/1/2001, Chính phủ Liên bang Đức (Bundesregierung) đã kiến nghị Tòa án Hiến pháp Liên bang (Bundesverfassungsgericht) cấm NPD hoạt động. Ngày 30/3/2001 Quốc hội (Bundestag) và Hội đồng Liên bang Đức (Bundesrat) cũng kiến nghị như vậy một cách độc lập. Nhưng kiến nghị này đã vấp phải bê bối đặc tình (V-Mann-Skandal), vì chứng cứ mà các bên kiến nghị sử dụng, để chứng minh tính vi hiến của NPD, chủ yếu dựa trên thông tin của các đặc tình, do Cơ quan Bảo vệ Hiến pháp cài trong bộ máy NPD. Tháng 10/2002, Tòa án Hiến pháp Liên bang tiến hành phỏng vấn để xác định tầm ảnh hưởng của các đặc tình, nhưng bên đưa kiến nghị từ chối cung cấp danh tính của các đặc tình, với lý do bảo vệ nguồn tin. Vì vậy, 3 (trong số 7) thẩm phán tham gia xét xử cho rằng có yếu tố cản trở xét xử (Verfahrenshindernis), và sử dụng quyền phủ quyết để chấm dứt việc xem xét. Lập luận của họ là “thiếu khoảng cách với nhà nước” (fehlende Staatsferne). Thuật ngữ này chỉ việc chính các đặc tình của Cơ quan Bảo vệ Hiến pháp (tức của nhà nước) đã nhúng tay vào việc tạo ra hình ảnh vi hiến của NPD. 4 thẩm phán còn lại muốn đến khi xét xử chính thức mới xác định tầm ảnh hưởng của các đặc tình đối với nghi vấn vi hiến của NPD. Tuy đó là ý kiến của đa số, nhưng vẫn chưa đủ, vì theo Điều 15 Khoản 4 của Luật Tòa án Hiến pháp Liên bang, thì phải cần đa số 2/3 cho biểu quyết ấy. Vì vậy, ngày 18/3/2003, Tòa án Hiến pháp Liên bang đã thông báo không tiếp tục xem xét vụ kiến nghị cấm NPD hoạt động.
Ví dụ về thất bại trong việc kiến nghị cấm NPD hoạt động cho thấy: Quốc hội, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang Đức cũng đành bất lực trước quyết định của Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức.
Khi bị bắt, Magnus Gäfgen thừa nhận đã bắt cóc, nhưng lại không chịu khai ra nơi dấu Jakob von Metzler. Lo lắng cho mạng sống của nạn nhân, Wolfgang Daschner (Phó Giám đốc Cảnh sát Thành phố Frankfurt am Main) đã quyết định, thông qua sĩ quan cảnh sát dưới quyền là Ortwin Ennigkeit, để dọa thủ phạm, rằng sẽ tiến hành cưỡng bức. Theo tố cáo của Gäfgen, hắn đã bị đe dọa, rằng sẽ phải chịu đau đớn chưa từng nếm trải; rằng một chuyên gia cảnh sát về món đòn ấy đang trên trực thăng, bay đến đây để ra tay thực hiện; và rằng sẽ nhốt hắn chung với hai gã da đen có nhu cầu sinh lý… Ennigkeit khẳng định không hề dùng chuyện “chuyên gia tra tấn” và “hai gã da đen” để đe dọa, mà chỉ cố gắng thuyết phục thủ phạm.
Việc đe dọa (nếu có) đã không đem lại kết quả như mong muốn. Sau khi Gäfgen khai ra chỗ dấu nạn nhân, cảnh sát đến nơi thì chỉ tìm được thi thể của cậu bé, đã bị thủ phạm giết chết từ trước. Gäfgen đã bị kết án tù chung thân. Tuy nhiên, khi đã yên vị trong tù, hắn đã khởi kiện hai vị công chức. Phía công tố đề nghị phạt cảnh cáo, phạt tiền. Phía luật sư bào chữa đề nghị trắng án.
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác, xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.”
Cơ sở hiến định thì khá giống nhau. Cơ sở pháp lý quốc tế thì cùng chung. Vậy tại sao khoảng cách thực thi của hai quốc gia lại lớn như giữa thiên đường và địa ngục? Cái khoảng cách siêu vũ trụ ấy hình thành do một sự khác nhau “nho nhỏ”: CHLB Đức đã ký và phê chuẩn thì thực hiện nghiêm chỉnh. Còn CHXHCN Việt Nam thì có ký và phê chuẩn cũng bằng không. Phải chăng chỉ để phục vụ “công tác” đối ngoại? Hay còn phải đợi Chính phủ ban hành nghị định, rồi lại đợi tiếp bộ nào đó ban hành thông tư hướng dẫn, sau đấy mới được phép thi hành?
Đưa vụ án Daschner vào bài viết này để thấy được, cái quan niệm về cách cư xử chuẩn mực đối với người bị bắt, với bị can, bị cáo và tù nhân trên đất Việt khác rất xa so với ở xứ người. Nên cũng đừng đòi người ta phải mặc nhiên thừa nhận những điều mình nghĩ, mình làm. Hơn nữa, nhận thức được tầm hạn chế tư duy của bản thân, để mà điều chỉnh dần, nếu muốn hòa nhập với thế giới văn minh.
Cũng để những ai mang danh thi hành công vụ của Nhà nước CHXHCN Việt Nam nghiêm túc xem lại cách hành xử bấy lâu nay của bản thân và đồng đội.
Và để dân lành đất Việt chạnh lòng bừng tỉnh nhìn nhau: Chúng ta có nên tiếp tục nhẫn nhịn nữa hay không?
Phán quyết ấy đã khiến nhiều người Đức bất bình và thất vọng, nhưng không thể bác bỏ cơ sở pháp lý mà thẩm phán đã viện dẫn. Vào lúc mà TXT đã “về đầu thú” ở Hà Nội, chính quyền Bang Hessen vẫn quyết tâm trục xuất Haikel S. Bộ Nội vụ Bang Hessen định dựa trên Điều 58a của Luật Cư trú, cho phép trục xuất người nước ngoài “nhằm phòng trừ nguy cơ đặc biệt đối với an ninh của CHLB Đức hay nguy cơ khủng bố”, mà không cần báo trước. Liệu họ sẽ được toại nguyện hay không? Chưa chắc.
Đây là một ví dụ, cho thấy không phải chính quyền Đức muốn làm việc gì cũng được, kể cả những việc rất chính đáng và cần thiết. Trong một nhà nước pháp quyền đích thực như CHLB Đức, thì chính quyền cũng không thể lấn át tòa án, còn tòa án thì chỉ dựa vào luật pháp để ra phán quyết mà thôi.
I.4. Thêm lời chú thích
Có lẽ 3 ví dụ nêu trên khá khó hiểu đối với nhiều người sinh sống ở Việt Nam. Nếu quả như vậy thì tốt, vì mục đích của phần I không phải để mọi người đọc đều hiểu, mà muốn để lại ấn tượng khó hiểu, mặc dùcũng mường tượng được, có lẽ họ có lý của họ. Để làm gì? Để đem lại cho bạn đọc trên đất Việt một cảm giác lạ lẫm, khi bước vào một thế giới pháp lý, mà mình khó tưởng tượng được. Để rồi hiểu ra, khoảng cách pháp quyền giữa xã hội Việt Nam và xã hội Đức không thể hoán đổi từ khoảng cách không gian (khoảng 8.500 km đường hàng không), mà phải dùng đại lượng thời gian (tính theo thập niên), thì mới mong ước đoán đượcđộ chênh lệch giữa hai tầm văn minh pháp quyền. Hiểu thế để thận trọng hơn khi phê phán, phán xét người ta.
Hơn nữa, cái cảm giác “khó hiểu những điều có lẽ có lý” sẽ giúp ta nhận ra, mình phải cần mẫn học hỏi, dày công nghiên cứu, thì mới có thể tiếp cận phần nào kiến thức mênh mông. Rồi sử dụng Google mà tìm kiếm thông tin cần thiết trên Internet, để trả lời những câu hỏi nảy sinh. Chẳng hạn:
(1) Với tư cách ba cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Liên bang Đức, tại sao Quốc hội, Hội đồng Liên bang và Chính phủ Liên bang Đức không tự mình ra quyết định cấm NPD hoạt động, mà lại phải kiến nghị điều đó với Tòa án Hiến pháp Liên bang, để rồi không được chấp nhận?
(2) Quốc hội có quyền sửa đổi hiến pháp theo ý mình, thì tại sao lại chịu khoanh tay, để Tòa án Hiến pháp Liên bang dựa trên hiến pháp hiện hành để bác bỏ cả kiến nghị của chính Quốc hội?
(3) Tại sao Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức lại không chấp nhận kiến nghị cấm NPD hoạt động (mặc dù bản thân Tòa án cũng xác định NPD là vi hiến, có bản chất gần với Chủ nghĩa Xã hội Dân tộc)?
Thôi, không đặt thêm câu hỏi nữa, cũng không đưa ra câu trả lời, kẻo lại tước mất niềm vui khám phá của mọi người, khi tự mình phát hiện ra vấn đề, đặt ra câu hỏi, và tự tìm ra câu trả lời. Để rồi dần dần ngộ ra những chân lý ẩn sâu nơi thăm thẳm.
Có một vấn đề cần được khẳng định trước khi kết thúc phần này, kẻo lại nảy sinh suy luận không đúng (từ phán quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang Đức về việc không cấm NPD hoạt động), rằng bọn cực hữu có xu hướng phát xít, mà chính quyền Đức còn dung túng bao che, huống hồ loại tham nhũng như TXT. Không, không thể cho rằng Nhà nước Đức không tích cực chống phong trào cánh hữu cực đoan có xu hướng phát xít. Nếu không tích cực, thì họ đã không kiến nghị cấm NPD hoạt động đến hai lần.
Bao tuyên bố mạnh mẽ được tung lên internet. Nhưng càng đọc thì càng thấy buồn về cách tư duy và phát ngôn dễ dãi. Chẳng chịu tìm hiểu, tra cứu cho đến nơi đến chốn, mà đã vội tùy tiện khẳng định như đinh đóng cột. Cứ như kị sĩ dũng mãnh giương cung, nhưng chẳng quan sát kỹ mục tiêu, nên mũi tên vút bay rồi lạc xa chân lý.
Giả sử INTERPOL đã đưa tên TXT vào Thông báo Đỏ, thì điều gì có thể xảy ra? Có phải “Cảnh sát Đức có trách nhiệm phối hợp với Cảnh sát quốc tế và Cảnh sát Việt Nam thực hiện lệnh truy nã đó” hay không? Tiếc rằng, câu trả lời là KHÔNG! Bởi INTERPOL viết rõ trên trang web, rằng Thông báo Đỏ “không phải là lệnh bắt giữ quốc tế”, và
“INTERPOL không thể ra lệnh bất cứ nước thành viên nào bắt giữ một cá nhân được đề cập trong Thông báo Đỏ. Mỗi nước thành viên tự xác định giá trị pháp lý của một Thông báo Đỏ trên lãnh thổ của mình.”
Nếu tin vào khẳng định ấy, thì có thể rút ra một nhận định sai lầm tai hại. Rằng do giữa Việt Nam và Đức chưa có ký kết về dẫn độ, nên phía Đức sẽ không chấp nhận yêu cầu của phía Việt Nam về việc dẫn độ TXT. Vì vậy, phía Việt Nam chỉ còn cách duy nhất, là lẻn vào Đức để bắt cóc TXT. Thực ra, ký kết song phương về dẫn độ có thể giúp cho việc dẫn độ được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi hơn. Nhưng nếu chưa có ký kết thì vẫn có thể tiến hành dẫn độ. Đối với Đức thì điều đó rất rõ ràng:
Vậy thì tại sao phía Đức chưa chấp nhận, hoặc có thể sẽ không thể chấp nhận yêu cầu của phía Việt Nam về việc dẫn độ TXT? Để trả lời câu hỏi này, sau đây ta đề cập đến bốn điều kiện pháp lý ràng buộc việc dẫn độ.
Động cơ là thứ không thể cân đo đong đếm, vậy thì bằng cách nào để xác định là đương sự “cố ý” hay “vô ý”? “Quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế” thì nhiều cái sai lè lè, nếu răm rắp làm đúng thì có mà… XHCN (“Xã Hội Chủ Nghĩa”, còn được đọc là “Xuống Hố Cả Nút”). Nếu không có những người dám “làm trái” như ông Kim Ngọc, thì đến giờ bà con nông dân vẫn phải treo niêu. Nếu không có những người dám “làm trái” như bà Ba Thi, thì biết bao công dân Thành phố mang tên Hồ Chí Minh đã có thể chết đói. Thế thì tại sao có thể quan niệm làm đúng là… đúng, còn “làm trái” là sai? Và khi có “hậu quả nghiêm trọng”, thì có thể do chính “Quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế” hay cấp trên cấp dưới gây ra, chứ tại sao lại đổ riệt cho đương sự? Vậy đó, đến “ta” còn thấy mông lung như vậy, thì sao có thể đòi hỏi “tây” phải hiểu, để mà thực thi “trách nhiệm phối hợp”?
TXT có tham nhũng hay không? Điều đó thì dân biết, quan biết, và lãnh đạo tối cao thì càng biết rõ. Vậy mà TXT lại không bị khởi tố bất cứ tội nào trong số 7 tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật Hình sự hiện hành (1999). Việc tránh khởi tố tội tham nhũng đồng nghĩa với thừa nhận rằng TXT không phạm tội tham nhũng, hoặc cùng lắm chỉ tham… như hầu hết các đồng chí khác. Mà tội đại trà thì không thể bị truy tố, bởi “nếu truy tố hết thì chẳng còn ai để lãnh đạo”.
Theo điều khoản này, thì phía Đức không được phép dẫn độ TXT bởi “tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, vìtrong Bộ luật Hình sự của CHLB Đức không có tội danh nào như vậy hoặc tương tự như vậy.
Điều 278 Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 quy định có thể bị xử tử hình, nếu “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên”. Điều 353 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (lẽ ra có hiệu lực từ ngày 1/7/2016, nhưng được sửa đổi theo Luật số 12/2017/QH14 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2018) quy định có thể bị xử tử hình, nếu “chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên”, hay nếu “gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên”. Chắc hẳn thành tích bất hảo của TXT cao gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn dành cho hạng “cán bộ cấp chiến lược” này.
“Nếu theo luật của nhà nước đề nghị dẫn độ mà hành vi phạm tội có nguy cơ bị kết án tử hình, thì chỉ được dẫn độ trong trường hợp nhà nước đề nghị dẫn độ đảm bảo rằng sẽ không kết án tử hình.”
Liệu Nhà nước Việt Nam có thể đảm bảo với phía Đức rằng sẽ không xử tử hình TXT hay không? Nếu không đảm bảo thì tất nhiên “hết phim”. Còn nếu đảm bảo, thì có nghĩa là lãnh đạo Nhà nước Việt Nam sẽ áp đặt mức án (không quá mức tù chung thân) cho thẩm phán. Và như vậy là vi phạm Điều 103 Khoản 2 Hiến pháp 2013, quy định rằng:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.”
Hơn nữa, còn mang tiếng tùy tiện. Và sau này biết xét xử thế nào với những trường hợp tương tự? Nếu vì án lệ TXT, mà sẽ chẳng xử tử hình bất cứ ai với “tội tham ô tài sản”, thì hóa ra phủ định Bộ luật Hình sự của CHXHCN Việt Nam hay sao?
II.3. Điều kiện về xét xử công bằng
Cho dù Nhà nước Việt Nam cam đoan sẽ không xử tử hình TXT, thì vẫn chưa đủ để phía Đức chấp nhận dẫn độ. Một trong những điều kiện quan trọng để phía Đức có thể chấp nhận dẫn độ là:
Đó là hệ quả trực tiếp của quy định tại Điều 1 Khoản 1 của Luật Cơ bản: ” Phẩm giá con người là bất khả xâm phạm. Tôn trọng và bảo vệ nó là nhiệm vụ của mọi quyền lực nhà nước.” Và điều đó cũng phù hợp với quy ước “tuyệt đối cấm tra tấn”, được quy định tại Điều 2 của Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc.
Tất nhiên, phía Việt Nam sẽ tuyên bố như muôn thuở, rằng đảm bảo TXT sẽ được xét xử công bằng. Song liệu phía Đức có thể tin tưởng vào lời đảm bảo đó hay không? Để hiểu đôi chút lý do, vì sao người Đức ngờ vực, hãy tham khảo mấy trải nghiệm đáng buồn của họ.
Ngày 30/6/2017, Đặc ủy Nhân quyền của Chính phủ Đức Bärbel Kofler đã ra thông cáo báo chí về bản án dành cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm), trong đó có đoạn:
Quan điểm của phía Đức đã được thể hiện rõ ràng như vậy, thì làm sao có thể thuyết phục được họ, rằng chắc chắn TXT sẽ được xét xử công bằng? Chẳng lẽ lại ôn tồn giải thích, rằng đồng chí TXT đã từng là cán bộ lãnh đạo cao cấp, nên sẽ không bị xử tệ như tụi tranh đấu nhân quyền hay sao?
II.4. Cấm dẫn độ đối với hành vi liên quan tới chính trị
“Không được dẫn độ đối với hành vi mang tính chính trị, hoặc hành vi có liên quan tới hành vi mang tính chính trị.”
Tuy điều khoản này còn mở ra ngoại lệ dẫn độ đối với các tội diệt chủng, giết người và ngộ sát, nhưng đó không phải là cánh cửa để có thể tóm được TXT, vì phía Việt Nam không hề khởi tố TXT về những tội ấy.
Đừng vội phủ định là TXT không bị truy tố về hành vi mang tính chính trị, mà chỉ bị truy tố về tội kinh tế. Cũng đừng tốn công thuyết phục phía Đức là TXT phạm tội tham nhũng, vì theo chuẩn của Đức thì đa số quan chức Việt Nam đều đủ tiêu chuẩn tham nhũng để đứng trước vành móng ngựa. Chắc hẳn phía Đức không hề băn khoăn về việc TXT có phạm tội tham nhũng hay không, nhưng buộc phải trả lời câu hỏi: Hành vi bị truy tố của TXT có mang tính chính trị, hoặc có liên quan tới hành vi mang tính chính trị hay không? Vụ án TXT có mang yếu tố chính trị hay không?
“Không bao giờ có chuyện ông Trịnh tự nguyện nộp mình cho các cơ quan Việt Nam. Ông ấy biết rõ, vì lý do chính trị, ông ấy sẽ không được xét xử công bằng.”
Tức là theo quan điểm của Luật sư Schlagenhauf và thân chủ TXT, thì vụ án này mang yếu tố chính trị và TXT “sẽ không được xét xử công bằng”.
Để chứng minh quan điểm ấy, Luật sư Schlagenhauf đã dành 653 từ (tiếng Đức) mô tả tóm tắt cuộc tranh giành quyền lực giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đồng thời đề cập tới số phận của Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng và TXT. Trong đó có đoạn:
“Ông Trịnh Xuân Thanh được coi là người được cả Vũ Huy Hoàng và Đinh La Thăng bảo trợ. Ông ta cũng có mối quan hệ cá nhân với Nguyễn Tấn Dũng, người cầm đầu phe hiện nay đã bị tước bỏ quyền lực trong nội bộ ĐCSVN. Ông Trịnh thuộc khuynh hướng cải cách của ĐCSVN. Dưới thời Chính phủ của Nguyễn Tấn Dũng, ông ấy đã có một sự nghiệp thành công. Các nhà quan sát chính trị cho rằng, việc truy tố hình sự đối với ông Trịnh Xuân Thanh nhằm mục đích chính trị chống lại phe của Nguyễn Tấn Dũng, với ý định đập tan nhóm cải cách (“bọn tư bản”) trong nội bộ ĐCS, khôi phục và tăng cường vai trò của Đảng trên cơ sở ý thức hệ cộng sản.”
Thử hỏi, sẽ bác bỏ quan điểm trên của Luật sư Schlagenhauf và của TXT bằng cách nào? Chuyện mâu thuẫn và tranh chấp quyền lực trên thiên đình là bí mật… công khai, mà ai ai cũng biết. Thậm chí, bà Schlagenhauf còn đề cập tới cả bản báo cáo đề ngày 4/9/2016, mà TXT gửi Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Trong đó TXT kết luận: “Tôi xin ra khỏi Đảng vì không tin vào sự chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư.”
Liệu có thể thuyết phục được dư luận trong và ngoài nước, rằng tất cả các yếu tố ấy không hề ảnh hưởng tới động cơ và tình cảm của những người ra quyết định khởi tố và truy nã quốc tế đối với TXT hay không? Và có thể chứng minh rằng vụ TXT không hề bị ảnh hưởng bởi yếu tố chính trị hay không? Hãy bỏ qua những câu hỏi về nội tâm (khó xác định một cách rõ ràng), để trao đổi về bốn khía cạnh cụ thể, đã được công khai trên báo chí, mà phía Đức có thể dựa vào đó để lập luận.
Vậy là, theo “tư duy hạn hẹp” của người Đức, thì việc Tổng Bí thư của một đảng chính trị tuyên bố “bắt bằng được TXT” và “chỉ đạo tập trung lực lượng… truy bắt, dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về nước phục vụ điều tra, xử lý vụ án” đã đủ để cho thấy, đó là một vụ án mang tính chính trị, hay ít nhất là Tổng Bí thư đã chính trị hóa vụ án.
II.4.b. Về tội danh truy nã
Khi Bộ Công an phát lệnh truy nã quốc tế vào ngày 16/9/2016, thì chỉ mới truy tố một tội danh, đó là “tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Vì ở CHXHCN Việt Nam thì quy định của Nhà nước thực ra là quy định của ĐCSVN. Do đó, “cố ý làm trái quy định của Nhà nước” cũng có nghĩa là “cố ý làm trái quy định của ĐCSVN”, và có thể giải thích đó là hành vi phản ứng lại chủ trương đường lối của một đảng phái chính trị. Vậy thì, theo cách tư duy của người Đức, rõ ràng hành vi phản ứng ấy của TXT mang tính chính trị.
“Trên trang facebook cá nhân sáng nay, Trương Huy San (Osin Huy Đức) đã đăng tải dòng chia sẻ giật gân đầy khiêu khích rằng “Trịnh Xuân Thanh về mà báo chí im ắng nhỉ”, dòng tin ngắn ngủi trên lập tức nhận được hàng ngàn lượt like, hàng trăm lượt chia sẻ, và dư luận bắt đầu bàn tán xôn xao. Vậy sự thật như thế nào?”
“Trong một phản ứng rất nhanh chóng và kịp thời, tại buổi trao đổi với PV Báo Pháp Luật TP HCM sáng nay (30/7), liên quan đến tin đồn cho rằng Bộ Công an đã dẫn độ Trịnh Xuân Thanh về Việt Nam để phục vụ công tác điều tra, Thượng tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết: “Đến giờ tôi vẫn chưa có thông tin gì”.”
“Người phụ nữ Việt Nam bị bắt cóc cùng với ông (tức TXT) nằm trong Bệnh viện Việt – Đức ở Hà Nội từ ngày 25/7/2017 dưới sự canh giữ của cảnh sát.”
“Vua không nói chơi”, nên Bộ trưởng Công an cũng không thể nói dối báo Pháp luật của Thành phố mang tên Hồ Chí Minh. Vì vậy, về nguyên tắc thì phải tin là Thượng tướng Tô Lâm đã nói thật. Tức là Bộ trưởng Công an “vẫn chưa có thông tin gì”, mặc dù TXT đã “về” mấy ngày rồi.
“Bộ Công an là Cơ quan trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.”
Vậy mà Thủ trưởng tối cao của cái Cơ quan trung ương ấy lại không hề được biết về chiến dịch “đưa TXT về”. Theo cách nghĩ “đơn giản” của người Đức, khi chiến dịch ấy không phải do “Cơ quan trung ương của nước CHXHCN Việt Nam trong hoạt động dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù” chỉ đạo và thực hiện, thì chắc hẳn do một băng đảng nào đó điều khiển. Và chiến dịch ấy có thể chỉ phục vụ đấu đá phe nhóm, chứ không thể là hoạt động chính đáng của nhà nước pháp quyền. Và hiển nhiên, đấy cũng là một dấu hiệu chính trị của vụ án TXT.
II.4.d. Về phương pháp truy nã
Đối với phía Đức thì đó là một vụ bắt cóc. Do tầm nghiêm trọng của vụ việc, Viện Tổng Công tố Liên bang Đức đã chính thức tiếp nhận nhiệm vụ điều tra từ Viện Công tố Berlin vào ngày 10/8/2017. Thông báo cùng ngày của Viện Tổng Công tố Liên bang có đoạn viết:
Bắt cóc TXT ngay giữa Thủ đô Berlin là hành vi giang hồ phi pháp, không thể coi là hành động chính đáng của một nhà nước pháp quyền. Thử hỏi, bạn sẽ chọn thuật ngữ “mang tính chính trị”, hay thuật ngữ “mang tính mafia”, hay thuật ngữ nào để đánh giá một vụ án được tiến hành như vậy?
II.4.e. Như vậy, xét tứ phía thì đều thấy đậm màu chính trị. Với những khía cạnh được trình bày trong phần II.4 này, thì làm sao có thể phủ định nghi ngờ về “tính chính trị”? Và làm sao có thể yêu cầu phía Đức vi phạm điều cấm: “Không được dẫn độ đối với hành vi mang tính chính trị” (IRG, Điều 6, Khoản 1)?
II.5. Tóm lại, chưa có bằng chứng chính xác nào có thể xác nhận lời tuyên bố của phía Việt Nam, rằng INTERPOL đã đưa tên TXT vào Thông báo Đỏ. Giả sử INTERPOL đã làm điều đó, thì “INTERPOL không thể ra lệnh bất cứ nước thành viên nào bắt giữ một cá nhân được đề cập trong Thông báo Đỏ” – đó là nguyên tắc của chính INTERPOL.
Việc phía Đức chấp nhận yêu cầu dẫn độ TXT là rất khó khăn, vì vấp phải mấy điều kiện nghiêm ngặt của luật pháp Đức.
Vướng mắc với điều kiện tương thích về tội danh (II.1) đã được khắc phục, sau khi khởi tố thêm vụ án hình sự đối với TXT về “tội tham ô tài sản” vào ngày 15/3/2017. Nhưng vì thế lại vấp phải điều kiện không được kết án tử hình (II.2), vì Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định mức án cao nhất cho “tội tham ô tài sản” là tử hình. Nếu Chính phủ Việt Nam tự ý cam đoan sẽ không kết án tử hình TXT, thì ít nhất cũng vi phạm Điều 103 Khoản 2 Hiến pháp 2013, “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”.
Về điều kiện xét xử công bằng thì phía Việt Nam có thể đưa ra cam kết, nhưng cả người nói lẫn người nghe đều biết quá rõ, đó chỉ là câu chuyện viễn tưởng mà thôi. Cho dù phía Việt Nam thành tâm cam kết, thì phía Đức cũng thừa hiểu, quan niệm của hai xứ về xét xử công bằng quá khác nhau. Vì vậy, nếu Chính phủ Đức tỏ ra tin vào cam kết ấy của phía Việt Nam để chấp nhận dẫn độ, và nếu sau này TXT không được xét xử công bằng (theo quan niệm của phía Đức), thì các luật sư Đức của TXT có thể khởi kiện Chính phủ Đức trước tòa án Đức, với niềm tin thắng kiện.
Rào cản khó vượt qua nhất là điều kiện cấm dẫn độ đối với hành vi mang tính chính trị. Bởi vì có quá nhiều biểu hiện của yếu tố chính trị trong vụ án TXT, như đã được trình bày trong phần II.4.
III. Xử sự trong hoàn cảnh khó xử
Khi xác định được TXT đang ở Đức, chắc hẳn bên truy nã nghĩ sẽ tóm được kẻ lẩn trốn trong một thời gian ngắn. Bởi tin rằng “đối tác chiến lược” sẽ nhiệt tình ủng hộ truy bắt kẻ tham nhũng. Nhưng lại vấp phải cái “từ từ” của phía Đức. Quá sốt ruột, phía Việt Nam không hiểu nổi: Tại sao phía Đức lại chần chừ, không giải quyết ngay chuyện dẫn độ TXT cho xong?
III.1. Hãy cùng nhau quay trở lại với vụ án Haikel S. (được trình bày ở phần I.3), để từ đó mà thử tư duy trên cương vị người Đức. So sánh giữa vụ án Haikel S. và vụ án TXT, sẽ thấy mấy điểm khác nhau rất cơ bản:
– Tội tổ chức hoạt động khủng bố, giết người của Haikel S. trầm trọng gấp bội so với tội phạm kinh tế của TXT.
– Những tội mà Haikel S. gây ra trên đất Đức do phía Đức trực tiếp điều tra và kết luận. Những tội mà Haikel S. gây ra ngoài đất Đức mang tính chất khủng bố, giết người. Còn tội của TXT thì phía Đức chỉ được phía Việt Nam thông báo, và có thể vụ án mang yếu tố chính trị.
– Tội của Haikel S. ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh của Liên bang Đức, còn tội của TXT không gây ra tác hại cụ thể nào cho Liên bang Đức.
– Tội của Haikel S. có thể tiếp diễn trong tương lai, còn tội của TXT chỉ dừng lại ở quá khứ.
Vậy thì tại sao phía Đức phải tạm gác lại những vụ trầm trọng như vụ Haikel S., để ưu tiên giải quyết trước yêu cầu dẫn độ TXT?
III.2. Mà tại sao phải vội? Chống tham nhũng là chuyện muôn thuở, có kết thúc đâu mà bảo cố làm cho xong. Chừng nào chế độ hiện thời còn tồn tại trên đất Việt Nam, thì chừng ấy bộ máy chống tham nhũng còn có thể tăng biên chế, chẳng lo bị thất nghiệp.
Tham nhũng nhan nhản mọi tầng, càng cao càng lộ liễu. Tại sao truy tố bằng được TXT, mà lại cố tình làm ngơ trước hàng ngàn, hàng vạn kẻ tham nhũng khác? Nếu vì tội to, thì còn nhiều kẻ tội to gấp bội. Nếu không dám đả hổ, thì còn nhiều kẻ ruồi muỗi hơn Thanh. Điều quan trọng là tất thảy đang lù lù ngay trước mắt, ở ngay trong nước, thậm chí nhiều kẻ còn đương chức đương quyền, tại sao không điệu ra phô diễn, mà phải sang tận Đức bắt bằng được TXT?
Vì hắn rất xấu, rất tham nhũng ư? Vậy ngài có khác hắn, hay cũng xêm xêm (rứa cả)? Cùng thuộc bộ phận không nhỏ được đào tạo quy củ trong cùng một lò học tập và làm theo, cùng được đảng tín nhiệm đưa vào quy hoạch cán bộ lãnh đạo, rồi cùng được bổ nhiệm đúng quy trình.
Vì việc xử lý rất gấp gáp ư? Tội của TXT và đồng bọn thì các vị đã biết từ lâu, tại sao trước kia làm ngơ, mà bây giờ mới đem ra xét xử? Vì trước kia không đánh nổi do “phe nó” quá mạnh, còn bây giờ “khả thi” vì “rắn đã mất đầu” ư? Nói như vậy thì khác nào thừa nhận là đấu đá phe nhóm.
Rõ ràng, khó có thể tìm được lý do hợp lý, để thuyết phục phía Đức chấp nhận sớm dẫn độ TXT.
III.3. Trong hoàn cảnh phía Đức quá bận, lại vấp phải những rào cản pháp lý khó vượt qua, chỉ còn lại cách duy nhất, là phía Việt Nam phải kiên trì chờ đợi. Tiếc rằng lại không chịu đợi, mà đã hành động như nhiều người đã biết.
Nếu đúng như cáo buộc của phía Đức, là mật vụ Việt Nam đã bắt cóc TXT giữa Berlin để đem về Hà Nội, thì hành vi ấy không chỉ vi phạm thô bạo luật pháp Đức và luật pháp quốc tế, mà còn vi phạm cả pháp luật Việt Nam. Vì Điều 492 (về nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự) của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định rõ:
“Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…”
Ra rả đại ngôn thượng tôn pháp luật, để rồi lại liều lĩnh hành động bất chấp pháp luật. Theo cách cảm thán của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, thì phải thốt lên: Thượng tôn pháp luật đến thế là cùng!
Tại sao phải hành động vội vã, đến mức cuồng dại và gây hậu quả nghiêm trọng đến như vậy? Chẳng lẽ quá cần kíp, để kịp thực hiện một âm mưu nào đó hay sao?
Với hành vi trắng trợn trên lãnh thổ CHLB Đức, họ xúc phạm Nhân dân Đức và Nhà nước CHLB Đức, đồng thời xúc phạm cả hàng chục triệu người Việt, và bôi nhọ hình ảnh của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
III.4. Vâng, tôi dùng từ “người Việt” để chỉ cả những người đang sinh sống ở nước ngoài, đặc biệt là cộng đồng sống trên đất Đức, trong đó có nhiều người đã mang quốc tịch khác. Và cố tình tránh dùng từ “Nhân dân Việt Nam”, mà chỉ viết rằng họ đã “xúc phạm cả hàng chục triệu người Việt”. Vì biết rằng còn có nhiều người không đồng cảm với mình. Suy nghĩ khác nhau là chuyện thường tình. Tôn trọng người khác chính kiến là nguyên tắc tối thiểu của cách sống văn minh. Vả lại, bản thân tôi cũng nhờ có điều kiện tiếp xúc với xã hội Đức, thì mới hiểu được những điều đang viết về người Đức, nên không thể đòi hỏi những người không có điều kiện tương tự phải hiểu tương tự.
Dẫu nghĩ như vậy, nhưng để truyền tải tinh thần của bài viết này, tôi vẫn muốn trao đổi đôi chút về mấy khía cạnh khác biệt so với Việt Nam. Để những người chưa đến Đức tham khảo, trước khi tiếp tục phê phán và chỉ trích cách xử sự của phía Đức trong vụ TXT.
III.4.a. Người Đức dùng tên “Luật cơ bản” (“Grundgesetz”, Đức hóa từ La-tinh “lex fundamentalis“) để chỉ hiến pháp, và thực sự quan niệm đó là luật cơ bản, mà tất cả đều phải tuân theo. Họ không coi hiến pháp như một thứ đồ trang sức chỉ để ngụy trang hay điểm tô cho chế độ. Họ không bao giờ chấp nhận để giới cầm quyền chỉ tận dụng hiến pháp khi hợp với khẩu vị, còn nếu không hợp thì sẵn sàng nhổ toẹt, ngang nhiên chà đạp lên hiến pháp. Và họ khó có thể hình dung ra cái cảnh quái đản: Chính quốc hội lập hiến lại ù lì, cố tình trì hoãn ban hành luật suốt mấy chục năm trời, hòng ngăn cản việc thực thi hiến pháp. Vả lại, ở Liên bang Đức, hiến pháp đã hiến định nội dung nào thì hiển nhiên nội dung ấy có hiệu lực pháp lý. Không có kiểu tư duy tôi tớ ngược đời: Hiến pháp phải đợi luật, luật phải đợi nghị định, nghị định phải đợi thông tư, và sau khi có thông tư hướng dẫn thì mọi người mới dám thực hiện. Cho nên, giả sử Quốc hội Đức cố tình trì hoãn ban hành luật, thì việc trì hoãn ấy cũng chẳng đem lại điều gì trên đất Đức.
Định nghĩa ngắn gọn này không chỉ khẳng định tính “độc lập”, mà còn nhấn mạnh chức năng “bảo vệ pháp luật” của luật sư. Cần hiểu đúng, chức năng “bảo vệ pháp luật” của luật sư không phải là chung tay với hệ thống cơ quan điều tra – cơ quan công tố – tòa án để “bảo vệ pháp luật”, mà ngược lại, là ngăn chặn hệ thống ấy vi phạm pháp luật. Nói nôm na, trách nhiệm của luật sư không phải là hợp tác, mà đối kháng với hệ thống cơ quan điều tra – cơ quan công tố – tòa án để “bảo vệ pháp luật”. Để cụ thể hóa chức năng này, Quy tắc Nghề luật sư (Berufsordnung für Rechtsanwälte) của Đức viết rõ tại Điều 1 Khoản 3:
Nhìn từ góc độ nhà nước pháp quyền, thì trách nhiệm vô cùng quan trọng của luật sư là giữ thăng bằng cho hệ thống pháp quyền. Vì không dựa trên quan điểm này, nên Quốc hội khóa XIV đã luẩn quẩn trong cuộc thảo luận về trách nhiệm tố cáo thân chủ của luật sư (khi sửa cái Bộ luật Hình sự vừa mới được thông qua mà đã phải dừng triển khai để sửa lại). Ý kiến ủng hộ thì cho rằng:
Vấn đề cốt lõi là: Để hoàn thành tốt vai trò giữ thăng bằng hệ thống pháp quyền, luật sư phải đóng vai trò chuyên trách là làm đối trọng, chứ không thể sốt sắng nhảy sang phía bên kia, làm thay phần việc điều tra tội phạm của cơ quan điều tra. Nếu luật sư không chuyên tâm trụ lại ở bên đối trọng, để đảm đương trách nhiệm giữ thăng bằng, thì hệ thống pháp quyền át sẽ… tùng bê.
Chứng kiến cuộc tranh luận của Quốc hội thông qua tường thuật của đài báo, đã định lên tiếng góp ý, nhưng rồi lại thôi. Một mặt, vì quá bận, chỉ có thể bớt chút thời gian góp ý cho hiến pháp, và một khi đã “não lòng với hiến pháp”, thì luật cũng trở nên vô vị. Mặt khác lại nghĩ, hãy để giới luật sư tự bảo vệ mình, chứ nếu họ không bảo vệ nổi mình, thì còn bảo vệ được ai nữa.
Để đảm nhiệm tốt chức năng nghề nghiệp, thì luật sư Đức phải thường xuyên miệt mài bổ sung kiến thức, và công phu nghiêm túc khi nghiên cứu hồ sơ vụ án. Liên bang Đức không có chỗ cho loại luật sư chỉ bỏ chút thời gian liếc qua hồ sơ vụ án, rồi thắt cà vạt đến phiên tòa chém gió. Tòa án Đức thực sự tôn trọng tranh tụng, nên luật sư không thể đổ lỗi cho thẩm phán, để biện hộ cho sự kém cỏi và lười biếng của bản thân.
Là người có rất nhiều tiền, lại rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn, chắc chắn TXT đã tìm thuê một nhóm luật sư cao thủ. Với dàn luật sư ấy, chính quyền Đức không dám qua mặt, và cũng không thể qua mặt, để đưa ra những quyết định trái luật nhằm dẫn độ TXT. Nếu vì lý do gì đó mà chính quyền Đức vẫn cố chấp nhận đề nghị dẫn độ TXT một cách trái luật, thì sẽ nắm chắc phần thua khi đối diện với luật sư tại tòa án.
III.4.c. Người Đức rất ghét các quan chức tham nhũng, nhất là quan chức tham nhũng mang danh cộng sản. Nhưng đừng nhắc nhở họ là TXT tham nhũng, để khêu gợi tình cảm chống tham nhũng. Bởi khi xử lý tội phạm, họ gạt tình cảm sang một bên và chỉ dựa vào cơ sở pháp lý. Nếu quả thật TXT phạm tội tham nhũng trầm trọng, và nếu vụ án chỉ đơn thuần nhằm trừng phạt tham nhũng, thì có quyền hy vọng rằng phía Đức sẽ chấp nhận dẫn độ TXT. Còn nếu vụ án có yếu tố chính trị, thì dù tham nhũng đến đâu đi nữa, TXT vẫn có thể được phép nương náu ở Đức. Một mặt, pháp luật Đức đã quy định như vậy, nên không ai có thể vi phạm. Mặt khác, phía Đức không thể an tâm giao nộp một kẻ tham nhũng cho một bộ máy tham nhũng xử lý.
Cách xử sự ấy có lẽ rất xa lạ và khó hiểu đối với cộng đồng đã được giáo dục kỹ lưỡng về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, đã thấm nhuần tinh thần không đội trời chung với kẻ thù. Nhưng trong một xã hội văn minh nhân đạo, người tốt không thể tước hết đường sống của người bị coi là xấu. Xã hội Đức khá nhân đạo, song chẳng mấy khi vỗ ngực tự khoe khoang là nhân đạo. Ngược lại, còn thường tự chỉ trích những biểu hiện thiếu nhân đạo, và điều đó khiến xã hội ngày càng nhân đạo hơn. Xã hội Việt Nam cũng nhân đạo, nhưng nặng về tự phong tự khen, bất chấp thực tế. Rồi khen hoài khen mãi, đến mức chẳng còn thời gian và sức lực để triển khai. Chưa kịp thực hành nhân đạo, thì đương nhiên chưa thể hiểu và thông cảm với cách cư xử nhân đạo.
III.4.d. Bạn có thể phê phán phía Đức không cương quyết chống tội phạm, song chớ chỉ trích họ “chứa chấp tội phạm”, bởi như vậy có thể bị coi là vu khống. Nếu muốn, bạn cứ việc cương quyết chống tội phạm theo cách của bạn, nhưng nhớ là chỉ làm thế ở trong nước của bạn. Và nếu phương châm sống của bạn là “mục đích biện minh cho phương tiện”, thì đừng quên rằng nó chỉ phù hợp với xứ sở luật rừng, đừng hồn nhiên xuất khẩu nó vào một cường quốc pháp quyền như Liên bang Đức. Các cụ đã dạy “nhập gia tùy tục”. Berlin thuộc “gia” Cộng hòa Liên bang Đức, nên nếu có đến đó thì phải tùy theo “tục” Đức, chứ đừng diễn tiếp “tục” rừng.
III.5. Tóm lại, cũng là nhà cầm quyền, nhưng nhà cầm quyền Berlin chỉ cầm cái quyền mà luật pháp Đức trao cho, không thể tùy tiện hành động vô độ như nhà cầm quyền ở chế độ độc đảng độc quyền. Trong hoàn cảnh pháp luật thật sự tôn trọng và bảo vệ nhân quyền, luật sư thật sự được tôn trọng và đáng được tôn trọng, và tòa án thật sự xét xử công bằng theo đúng quy định của pháp luật, thì Chính phủ Đức không thể tùy tiện chấp nhận đề nghị dẫn độ TXT của Chính phủ Việt Nam. Do phía Đức phải giải quyết bao trường hợp khác, xuất hiện trước và nghiêm trọng hơn nhiều so với vụ TXT, nên đương nhiên phía Việt Nam phải chờ, để đồng nghiệp Đức có thể tiến hành xem xét theo đúng trình tự pháp lý. Tiếc rằng, theo cáo buộc của phía Đức, thì phía Việt Nam đã không đợi, mà tiến hành bắt cóc TXT giữa Berlin để đem về Hà Nội. Nếu quả là như vậy, thì đó là một hành vi không thể chấp nhận được, vì nó vi phạm nghiêm trọng luật pháp Đức, luật pháp quốc tế và cả luật pháp Việt Nam.
Nhà cháy, thay vì lao vào chữa cháy, cả guồng máy lại lặng im. Trong khi đó, lực lượng “quần chúng tự phát” lại đồng loạt ra tay, đổ thêm xăng vào lửa. Với những lời chỉ trích và lên án phía Đức một cách vô lối, họ góp phần làm cho tình hình vốn đã quá căng thẳng càng căng thẳng hơn.
Chưa bao giờ uy tín CHXHCN Việt Nam ở CHLB Đức và Cộng đồng chung Châu Âu lại bị hủy hoại nặng nề đến như vậy. Bao công sức ngoại giao và tô vẽ thể diện chế độ suốt mấy chục năm trời, nay bị hắt hết xuống sông xuống biển trong chốc lát.
Những hậu quả kinh tế, chính trị và ngoại giao lớn đến mức khó có thể lường hết được. Bỏ ra cả núi tiền để nuôi báo cô bộ máy thanh tra – kiểm tra khổng lồ, mà cả năm chỉ phát hiện ra mấy trường hợp tham nhũng và kê khai tài sản không trung thực, thì đã quá phi lý. Bây giờ, trong vụ TXT, nhân danh chống tham nhũng, mà lại gây thiệt hại gấp bội lần so với hậu quả tham nhũng của TXT, vậy thì chống để làm chi? Chẳng lẽ chỉ để giải quyết khâu sĩ diện của đấng cầm quyền?
Tình thế trầm trọng, nên xử lý thế nào? Sau đây là bốn phương án, mà các bên liên quan có thể tham khảo.
IV.1. Phương án kiên định nói thật
Trong trường hợp không hề bắt cóc TXT, thì đương nhiên phải kiên định với học thuyết “TXT đầu thú”. Có điều, để phủ định cáo buộc của phía Đức về việc bắt cóc TXT, thì phải thẳng thừng khẳng định không hề bắt cóc TXT. Chứ tránh từ “bắt cóc”, chỉ nói “TXT đầu thú” thì chưa đủ. Vì nếu đã bị bắt cóc và bị giam ở Việt Nam, thì việc TXT thừa nhận mình đã “đầu thú” là lựa chọn an toàn nhất.
IV.1.a. Khốn nỗi, kể cả trong trường hợp không hề bắt cóc TXT, thì dù nhà cầm quyền Việt Nam phủ định đến mấy, nhiều người Việt vẫn tin vào cáo buộc của phía Đức. Không phải vì tâm lý sính ngoại, mà vì dân ta đã phải nếm quá lâu và quá nhiều món dối trá của quan ta. Âu cũng là trả giá cho lạm phát dối trá mà thôi. Hơn nữa, tập quán hành xử côn đồ của giới công quyền Việt Nam không phải là điều xa lạ. Mỗi khi cướp đất của dân, hay đàn áp biểu tình yêu nước, hay khống chế những người tranh đấu cho quyền tự do dân chủ, họ thường áp dụng những biện pháp côn đồ. Thứ thì được triển khai bằng cách huy động côn đồ đích thực, và tuyên bố đó là “quần chúng tự phát”. Thứ thì được thực hiện bởi công an đóng vai côn đồ. Mà nhiều khi cũng chẳng cần phải đóng vai nữa. Trong đám ấy, có kẻ do tha hóa mà trở thành côn đồ, có kẻ qua đào tạo mà thành côn đồ, và cũng có kẻ đã là côn đồ từ trước khi chạy được vào ngành công an. Côn đồ thì ít học, lại ngông nghênh, nên nếu có nhảy vào Đức để bắt cóc TXT, thì cũng hợp với bản chất.
IV.1.b. Vấn đề đặt ra đối với nhà cầm quyền Hà Nội, là phải chứng minh thế nào, để những người đầy ngờ vực cũng tin? Chưng ra cái “Đơn xin tự thú” của TXT thì chẳng thuyết phục được mấy ai. Bởi căn cứ vào đâu, để có thể tin đó thực sự là đơn của TXT? Bút tích ư? Dân Việt thường chỉ được chiêm ngưỡng bút tích của Hồ Chí Minh, may chăng thì thêm bút tích của Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Đến như bút tích của đương kim Tổng Bí thư cũng thuộc loại “lạ”, thì làm sao “quen” được bút tích TXT? Ngay cả những người từng làm việc dưới trướng TXT, giữa thời buổi văn bản được dàn giúp việc xử lý vi tính và thủ trưởng chỉ cần ký, thì cũng chẳng mấy ai có may mắn thực mục sở thị nét chữ bậc lãnh đạo. Nếu dựa vào những biểu hiện văn hóa thấp trong lá đơn, thì càng ít thuyết phục. Trong hàng ngũ lãnh đạo, ít chữ đâu chỉ có TXT. Bộ trưởng còn ngọng, thì tại sao Phó Chủ tịch Tỉnh không có quyền ngọng?
Cho nên, cần phải công bố những hình ảnh sống động để làm minh chứng. Đoạn video chớp nhoáng được công bố trên chương trình thời sự của VTV1 vào 19 giờ tối ngày 3/8/2017 chưa đủ để phủ định cáo buộc bắt cóc. Người có ý định đầu thú lo nhất là bị đồng bọn thủ tiêu. Nên khi đã chủ động đầu thú và đầu thú thành công, được bộ máy an ninh bảo vệ an toàn, lại được ưu đãi vì đã tự nguyện đầu thú, thì phải tươi tỉnh, thư giãn, chứ không thể căng thẳng, phờ phạc như vậy.
Nếu bột phát đầu thú ngoài khuôn khổ tổ chức, thì việc vượt biên về nước (khi đã có lệnh truy nã) còn khó hơn gấp bội so với lần vượt biên khỏi Việt Nam (khi chưa có lệnh truy nã). Nói thẳng ra là TXT không thể tự ý lù lù nhập cảnh, rồi “đến Trực ban hình sự Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an đầu thú”. Cho nên, chắc chắn TXT đã phải có những buổi làm việc với đại diện của tổ chức, để được tổ chức đưa về nước. Và cái tổ chức ấy chắc chắn có cơ sở làm việc an toàn, nơi có thể quay video đầy đủ quá trình bàn bạc để làm tư liệu. Khi về nước không thể trống dong cờ mở như đón đội tuyển Olympic, nhưng chắc chắn phải ngầm quay phim quá trình nhập cảnh và đi từ sân bay đến Trực ban hình sự Cơ quan An ninh điều tra – Bộ Công an, để làm minh chứng cho sự tự nguyện trở về. Đó là chưa kể đến dấu xuất cảnh đóng trong hộ chiếu, nếu quả thật TXT đã rời Đức một cách hợp pháp. Hãy công bố tất cả những tư liệu ấy để giảm bớt lăn tăn.
“Được sự động viên của gia đình và bạn bè, tôi đã về Việt Nam và đầu thú tại Cơ quan An ninh điều tra để được hưởng sự khoan hồng của Đảng, Nhà nước và pháp luật.”
Nếu đúng như vậy, thì không chỉ TXT đáng được hưởng sự khoan hồng, mà cả gia đình và bạn bè cũng xứng đáng được khen thưởng. Hình thức thưởng thấp nhất là cho phép TXT, vợ con và cha mẹ gặp mặt, nghẹn ngào mừng rỡ ôm nhau (trước sự giám sát chặt chẽ của an ninh, nên chẳng có gì đáng ngại). Nếu vợ con TXT chưa về nước được, thì quay phim phỏng vấn ở nước ngoài. Như vậy càng tốt, tránh được tiếng dèm pha, rằng tất cả chỉ là màn kịch được dựng lên trong nhà tù lớn. Việc đó chắc chắn chỉ tốt, chứ không thể gây ảnh hưởng xấu đến quá trình xử lý vụ án. Quan trọng là phải quay những đoạn phim sống động, rồi công bố trên VTV. Tại sao không?
Khúc mắc khó xơi nhất là phản ứng của mấy luật sư Đức. Từ trước đến nay TXT vẫn nói với họ, rằng không bao giờ tự nguyện nộp mình cho các cơ quan Việt Nam, bởi biết rõ, vì lý do chính trị, sẽ không được xét xử công bằng. Giả sử bỗng nhiên TXT đổi ý, định về nước đầu thú, thì ít nhất trước đó hắn cũng phải nói với họ, rằng tôi có việc phải đi xa và không muốn tiếp tục thuê luật sư nữa, nên chúng ta thanh toán và chấm dứt hợp đồng. Đằng này, hắn chẳng nói gì, chưa thanh toán tiền công luật sư đã biến. Phải chăng hắn có ý bùng để quịt tiền công? Nhưng tài sản của hắn vẫn còn nằm trên đất Đức, bùng thế nào được mà bùng? Không bùng, thì trước khi chủ động và tự nguyện rời khỏi nước Đức, hắn cũng phải tuyên bố chấm dứt hợp đồng thuê luật sư, để đỡ tốn tiền thuê luật sư một cách vô ích. Tiền Euro chứ có phải vỏ hến đâu. Một tay tham lam, lại hết thời như hắn, mà không kịp cắt hợp đồng, thì đích thị bị… bắt cóc rồi. Để xóa bỏ những suy diễn bất lợi như vậy, đơn giản nhất và tốt nhất là mời bà Petra Isabel Schlagenhauf cùng mấy luật sư khác đến Việt Nam, để trực tiếp đối chất với TXT. Lúc đó, chỉ việc quay phim buổi tiếp xúc giữa TXT và luật sư Đức, rồi công chiếu trên VTV, thế là xong.
Nếu công bố ngay lập tức mấy đoạn video tư liệu về hành trình tự đầu thú của TXT, tiếp đó quay và công chiếu cảnh gặp gỡ vui vẻ giữa TXT với người thân, và cảnh các luật sư Đức đối chất với TXT, thì sẽ khiến nhiều người tin hơn. Ngược lại, nếu thiếu một trong ba cảnh ấy, thì khó lòng xóa hết mọi nghi ngờ.
Thực ra, giá trị thuyết phục của mấy đoạn video kiểu ấy cũng không cao. Vì khi đã nằm trong trại giam ở Việt Nam, thì đương nhiên TXT sẽ phải làm theo mọi sắp đặt của công an, gia đình và người thân cũng phải “hợp tác” để giảm thiểu mức trừng phạt đối với TXT. Mặc dù vậy, có còn hơn không. Im lặng càng lâu, thì dư luận càng nghi ngờ là đang câu giờ để ngụy tạo. Do đó, không thể chần chừ thêm nữa. Nếu quả thật không bắt cóc TXT, thì phải lập tức công bố mấy đoạn video ấy, để chứng tỏ vô tội.
IV.2. Phương án kiên định nói dối
Trong trường hợp đã bắt cóc TXT, thì kiên định khẳng định học thuyết “TXT đầu thú” vẫn là phương án dễ thực hiện nhất. Nói dễ là vì nó vừa phù hợp với bản năng, vừa hợp với truyền thống và bề dày kinh nghiệm, đã gom góp suốt mấy chục năm kiên định, khẳng định tính ưu việt và sự tất thắng của học thuyết “xã hội chủ nghĩa”. Về bản chất hiện thực, cả hai học thuyết đều giống nhau. Nhưng “xã hội chủ nghĩa” là thứ mà Thế giới đã chứng kiến trên thực tế suốt 100 năm (1917 – 2017), và đã ngã ngũ gần 30 năm trước – Vậy mà vẫn còn kiên định được. Còn học thuyết “TXT đầu thú” chưa đầy tháng, và chỉ mấy nhóm nhỏ trong bộ máy cầm quyền của hai nước biết rõ sự thật, số còn lại chỉ “nghe hơi nồi chõ” mà thôi – Vậy thì, trong hoàn cảnh chủ trương nhất quán của lãnh đạo đảng là kiên quyết chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kiên định nào có khó.
IV.2.a. Cho dù xác định ngay từ đầu là sẽ nói dối, thì các nhà thực thi kiên định nói dối cũng cần hiểu, bàn đàm phán không phải là nơi để hai bên thi thố lừa nhau. Cho nên, cần tỉnh táo xác định xem có thể nói dối đến mức nào. Để xác định được giới hạn hợp lý, thì phải đánh giá đúng mức độ chênh lệch mặt bằng nói dối giữa hai nền văn hóa. Cả hai bên đều có thể nói dối, nhất là ở chính trường, nơi nói dối đã trở thành tập quán quốc tế. Nhưng cung bậc rất khác nhau, không chỉ về tần suất nói dối, mà cả về tâm lý nói dối. Một bên nói dối khi cần, nói dối rồi thì sợ lộ. Bên kia lại nói dối cả những điều không cần hoặc không nên nói dối, cốt là để mua vui; nói dối xong thì đem khoe, nhằm chứng tỏ ta đây thông minh sắc sảo hơn người. Một bên có đa số quanh năm nghiêm túc, nên đặt ra ngày cá tháng tư, để họ có dịp nói dối nhằm thư dãn đôi chút. Bên kia nói dối quanh năm, lẽ ra nên đặt ra một ngày nói thật để nghiêm túc lên một tí, thì lại nhập khẩu thêm ngày cá tháng tư, để nói dối thả phanh cho đã. Nếu không ý thức được độ vênh đó, rồi nghĩ rằng ta nói dối, họ cũng nói dối, thế là một đều. Trong hoàn cảnh đại diện cho bên có lỗi, nếu không hiểu được mức độ nghiêm túc và hiểu biết của đối phương, mà nói dối quá đà, thì chỉ khiến đối phương càng thêm phẫn nộ.
IV.2.b. Khi đôi co, đừng chủ quan nghĩ rằng phía Đức không hề biết những điều mình đang chối cãi. Họ rất giỏi điều tra, đồng thời cũng rất thận trọng và dè dặt trong phát ngôn. Thường thì họ chỉ hé ra một phần nhỏ những điều đã biết, mang tính cảnh báo. Phần còn lại giữ kín làm tư liệu đối chứng, để đánh giá đối phương, và làm quỹ dự phòng, để tung ra khi cần vạch mặt. Nếu không tin, hãy hỏi kinh nghiệm của bao người Việt, từng lang thang buôn thuốc lá trên đất Đức vào thập kỷ 90. Khi ấy, bà con mình sử dụng mấy tên giả khác nhau, để nhập vào mấy trại tị nạn khác nhau. Nhập càng nhiều trại thì càng lĩnh được nhiều tiêu chuẩn tị nạn. Và mỗi lần bị bắt vì tội buôn lậu thuốc lá, thì lại khai ra một bí danh tị nạn cùng với tên trại tị nạn tương ứng. Khai tên gì cảnh sát Đức cũng lẳng lặng ghi chép tên ấy. Thế rồi, sau bao năm tỏ ra nhẹ dạ cả tin, đến khi ký kết xong với phía Việt Nam về việc tiếp nhận lại một số người vượt biên vào Đức, cảnh sát Đức lần lượt bắt từng người. Và lại hỏi tên như thường lệ. Nghe xong câu trả lời thì nhỏ nhẹ: Thôi, họ tên quê quán thật của ngài là thế này, hãy nhận lại đi. Thế là hết vở. Vậy nên, đừng thấy đối phương lặng lẽ lắng nghe, mà tưởng mình lừa giỏi, lại tiếp tục liên thiên, cố chứng minh bản thân… xỏ lá.
Hiển nhiên, muộn nhất là ngày 28/7/2017, khi cả người cho thuê lẫn người thuê xe đều bị cảnh sát thẩm vấn và chiếc xe gây án bị thu giữ, thì đường dây đã biết rằng bị lộ. Và có lẽ đó không phải dấu hiệu bị lộ duy nhất. Bởi vì ngày 25/07/2017 (tức là 3 ngày trước khi thu xe), cảnh sát đã thông báo cho Luật sư Petra Isabel Schlagenhauf: Hầu như không còn nghi ngờ gì về việc mật vụ Việt Nam đã bắt cóc một người Việt giữa Berlin. Thử hỏi, việc Bộ Công an đột ngột đưa tin “TXT đầu thú” vào ngày 31/7/2017 chịu tác động nhiều hơn bởi yếu tố bị lộ (ở Đức và Séc), hay bởi câu “Trịnh Xuân Thanh về mà báo chí im ắng nhỉ” do Huy Đức viết vào ngày 30/7/2017? Một số người quy hết trách nhiệm cho Huy Đức, đã để lộ bí mật quốc gia, khiến chính quyền rơi vào thế bị động, phải vội vã công bố tin “TXT đầu thú”, nên không có đủ thời gian diễn trọn kịch bản, dẫn đến tổn thất to lớn cho đất nước. Bắt cóc TXT thì được bênh vực. Để lộ chuyện “TXT về” thì bị lên án, bị đổ hết trách nhiệm lên đầu. Như vậy liệu có công bằng không?
IV.2.c. Điều quan trọng nhất, trước quyết định kiên định nói dối, thì cần ước lượng xem sẽ kiên định được bao lâu. Người Đức có câu: “Lügen haben kurze Beine”. Dịch nôm na là “dối trá ngắn chân”, nên không đi được xa, không trụ được lâu, chẳng mấy chốc sẽ phải dừng lại. Tức là, nếu dối trá thì sớm muộn cũng bị lộ tẩy. Nếu cuối cùng cũng phải thừa nhận, thì nhận sớm có hơn không?
Vẫn lưỡng lự, có lẽ vì sợ mất thể diện. Đối với những người đã quá thất vọng, thì thể diện lãnh đạo chẳng còn, để mà lo mất. Nhưng đối với triệu người còn bám phao niềm tin xì hơi, để biện hộ đời mình, thì mất thể diện lãnh đạo sẽ khiến mất niềm tin, khó tránh khỏi đổ vỡ. Đau đớn nhất là những ai không chỉ tin tưởng, mà còn đem cả danh dự cá nhân để bảo vệ uy tín của tổ chức. Tiếc thay, chế độ không thể bền vững khi dựa vào niềm tin mê man.
Nên hiểu rằng: Nếu thừa nhận đủ sớm, thì còn có cơ hội đổ lỗi cho “phường đánh máy” và dễ khắc phục hậu quả hơn. Ngược lại, im lặng hay cố cãi càng lâu, thì chứng tỏ cấp ra lệnh càng cao. Thiên hạ có thể suy diễn tùy tiện, ví dụ như sau: Kiên định nói dối 5 ngày chứng tỏ vị đầu têu tầm vụ trưởng. Kiên định nói dối 10 ngày chứng tỏ vị đầu têu tầm bộ trưởng. Kiên định nói dối 20 ngày chứng tỏ vị đầu têu cỡ thủ tướng. Kiên định nói dối 30 ngày chứng tỏ vị đầu têu là… ai?
IV.3. Phương án thành khẩn hối lỗi
Xét tiếp trường hợp đã bắt cóc TXT, thì theo phương án này, cần sớm thừa nhận sai lầm. Việc chỉ ra vị đầu têu đích thực có thể chỉ là vấn đề thứ yếu. Vì có lẽ phía Đức cũng tránh truy cứu đến cùng, nếu nghĩ đó là chốn… tận cùng. Quan trọng hơn, là phải chân thành thừa nhận, rằng hành động như vậy là sai, và phải thành tâm xin lỗi.
IV.3.a. Thừa nhận và xin lỗi vẫn chưa đủ. Trong thông cáo báo chí ngày 2/8/2017 của Bộ Ngoại giao Đức, phía Đức chẳng đòi phía Việt Nam phải thừa nhận hay xin lỗi, mà thẳng thừng lên án “sự vi phạm trắng trợn chưa từng có đối với luật pháp Đức và luật pháp quốc tế”, đồng thời khẳng định rõ ràng rằng:
“Die Bundesregierung verlangt, dass Herr Trinh Xuan Thanh unverzüglich nach Deutschland zurückreisen kann, damit der Antrag auf Auslieferung und der Antrag auf Asyl jeweils in einem rechtstaatlichen Verfahren zu Ende geprüft werden können.”
Dịch ra tiếng Việt là:
“Chính phủ Liên bang Đức đòi hỏi, rằng ông Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức, để cả đề nghị dẫn độ và đơn xin tỵ nạn đều có thể được xem xét đến cùng đúng theo trình tự pháp lý.”
Nghĩa là Chính phủ Đức yêu cầu phía Việt Nam để cho “ông Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức”, tất nhiên là theo nguyện vọng của TXT.
Tiếc rằng, không hiểu do vô tình hay hữu ý, mà một số báo lại viết rằng: “Đức yêu cầu Việt Nam trao trả ông Trịnh Xuân Thanh”. Thuật ngữ “trao trả“ đã khiến một số người hiểu lầm, lạc vào cuộc tranh luận, rằng TXT là công dân Việt Nam, tại sao phía Đức lại đưa ra đòi hỏi phi lý, là Việt Nam phải “trao trả“ TXT cho Đức?
Tất nhiên phía Việt Nam có thể trưng ra một đoạn video, trong đó TXT tuyên bố, rằng ông ta đã về nước một cách tự nguyện, và hiện nay không muốn quay lại Đức nữa. Song, khi mà phía Đức đã tuyên bố, rằng việc tổ chức bắt cóc TXT giữa Thủ đô Berlin đã “hủy hoại nghiêm trọng lòng tin”, thì họ sẽ không thể tin vào tính trung thực của đoạn video. Họ chỉ tin, khi TXT được quay lại Đức, đứng trên mảnh đất tự do, trong hoàn cảnh không hề bị khống chế, tuyên bố rút lại đơn xin tị nạn, và tự nguyện trở về Việt Nam để đầu thú. Nếu phía Đức chỉ đòi hỏi có vậy, thì dựa vào đâu mà phía Việt Nam từ chối?
Cho nên, để chứng tỏ thực sự chân thành, thực sự thành tâm, Chính phủ Việt Nam buộc phải chấp nhận thực hiện đòi hỏi của Chính phủ Đức, là để “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”. Và chỉ như vậy thì phía Đức mới tin vào sự thành tâm của phía Việt Nam.
Lý do khiến phía Đức đã, đang và sẽ tiếp tục khẳng định đòi hỏi phải để “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức”, không phải nhằm khôi phục lòng tin với “đối tác chiến lược”, mà để khôi phục sự tôn nghiêm pháp quyền, đã bị hành vi bắt cóc làm tổn thương, và để chứng tỏ với dân Đức, rằng Chính phủ Đức đã kết luận đúng và không hành động nửa vời. Nghĩa là vừa đảm bảo tính nguyên tắc, vừa bảo vệ danh dự của Chính phủ Đức.
IV.3.b. Nếu chấp nhận đòi hỏi của Chính phủ Đức, nhà cầm quyền Hà Nội lại lúng túng với câu hỏi của dư luận trong nước: Tại sao lại thả một kẻ đã bị truy tố, bị truy nã, mà phải mất rất nhiều thời gian công sức thì mới bắt được? Phải giải thích thế nào với những công dân đang hồ hởi, coi việc tóm được TXT là một thành công lớn của công tác chống tham nhũng, dưới sự lãnh đạo tài tình của Tổng Bí thư?
Có lẽ chẳng còn cách nào khác, là Chính phủ Việt Nam phải công khai thừa nhận với toàn dân, là cách bắt TXT như vậy là sai, là vi phạm luật pháp Đức, luật pháp quốc tế, và cả luật pháp Việt Nam. Kết quả của hành vi phi pháp thì không thể coi là một thành công, nên bây giờ phải hủy bỏ, bằng cách tạm thả TXT ra để khắc phục hậu quả, rồi sau đó sẽ tiến hành bắt lại từ đầu, theo đúng với quy định của pháp luật.
Lo mất mặt ư? Sai lầm tày trời của cải cách ruộng đất mà còn dám thừa nhận, thì tại sao không dám thừa nhận sai lầm trong vụ TXT? Đã phạm biết bao sai lầm người người đều biết, thừa nhận vài sai lầm thì có quá nhiều đâu? Tiếc thay, thừa nhận sai lầm đã trở thành một thứ quý hiếm, có nguy cơ bị tiệt chủng trong quần thể mà sĩ diện cao hơn hẳn lòng tự trọng.
IV.3.c. Chắc Chính phủ Việt Nam lo ngại, xử lý như vậy là thả hổ về rừng, sẽ không bắt lại được. Điều đó là hiện thực. Nếu khi trở lại Đức, TXT không rút đơn xin tị nạn, mà tiếp tục xin tị nạn chính trị, thì khả năng được chấp nhận rất cao. Đơn giản vì nhà cầm quyền Hà Nội đã vô tình giúp TXT, chứng minh rằng có yếu tố chính trị trong việc truy nã TXT. Và cho dù đơn xin tị nạn không được chấp nhận, thì khó lòng có chuyện dẫn độ. Vì sao? Với việc bắt cóc trắng trợn diễn ra giữa Thủ đô Berlin, các luật sư của TXT đã có đủ bằng chứng, để chứng minh yếu tố chính trị của vụ án, và để lập luận rằng: Không thể đảm bảo TXT sẽ được xét xử công bằng và đúng luật bởi một bộ máy công quyền sẵn sàng vi phạm pháp luật Đức một cách thô bạo. Với hai lý do ấy, chẳng thế lực nào có thể thắng nổi các luật sư Đức trước tòa án Đức. Và khi đó, TXT sẽ không bị dẫn độ từ Đức về Việt Nam.
Nếu kết cục sẽ như vậy, thì thể diện của nhà cầm quyền Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng mất mát sẽ không quá nhiều. Những gì cần khai thác và lưu trữ để phục vụ các vụ án liên quan thì họ đã kịp thu thập đủ, trước khi để TXT quay lại Berlin. Thậm chí, việc TXT biến khỏi Việt Nam còn giảm bớt nguy cơ hắn sẽ khai quá đà, lộ cả “thành tích” của các đồng chí “phe ta”. Quan trọng là quyết định không dẫn độ TXT sẽ là bằng chứng hùng hồn, để thế lực cầm quyền ở Việt Nam có thể biện minh cho hành vi bắt cóc: Thấy chưa, ngoài phương án vào Đức để bắt cóc tên tội phạm TXT, thì còn cách nào khác nữa đâu.
IV.3.d. Về phía Đức, nếu TXT được thả khỏi trại giam và trở lại Đức, thì đó là một thành công, cả về mặt ngoại giao lẫn mặt pháp lý. Bộ máy an ninh cũng đỡ bị mang tiếng là kém cỏi, để mật vụ cộng sản hoành hành bắt người giữa Thủ đô. Có điều, sau khi hoan hỉ thì chẳng biết nên làm gì với chiến lợi phẩm. Vốn dĩ TXT chỉ là loại vô danh ở Đức, nay nhờ có vụ bắt cóc mà trở nên nổi tiếng, thế mới đâm ra khó xử. Cưu mang một mình TXT thì chẳng thành vấn đề, nhưng nhỡ đám quan chức cộng sản tham nhũng tưởng đó là tín hiệu vẫy gọi, khi bị truy nã kéo cả sang Đức thì sao? Ừ thì họ không phải là đối tượng mà xã hội Đức e ngại, như đám khủng bố IS, nhưng chính quyền Đức cũng chẳng thích thú gì, khi phải liên miên xử lý đề nghị dẫn độ của “bên thắng cuộc”. Và nếu không chấp nhận dẫn độ đủ nhanh, thỉnh thoảng lại diễn ra một vụ bắt cóc ở Đức thì sao?
Nếu dẫn độ được, thì cũng nhẹ gánh. Nhưng khổ nỗi không thể thắng nổi mấy vị luật sư, và cũng không thể qua mặt tòa án để mà dẫn độ. Cuối cùng, khi phải chấp nhận cho TXT tị nạn chính trị ở Đức, thì lại bị chính quyền và dư luận Việt Nam chỉ trích là chứa chấp tội phạm. Kể cả khi TXT tự mình ra khỏi Đức, để lẩn trốn ở một nước khác, thì có thể phía Việt Nam vẫn cáo buộc phía Đức bao che, giấu tên tội phạm ở đâu đó trong nước Đức. Ngoài niềm hoan hỉ ban đầu, thì chẳng được thêm cái gì, mà chỉ thấy mất mà thôi.
IV.4. Phương án cùng thắng
Trong phần này, ta xét tiếp trường hợp đã bắt cóc TXT, phía Việt Nam chân thành thừa nhận, rằng hành động như vậy là sai, và thành tâm xin lỗi. Song khác phương án IV.3 ở chỗ, phía Việt Nam không để“Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”. Vậy thì phía Đức nên giải quyết thế nào? Một giải pháp có thể chấp nhận được, là dàn xếp để sớm xét xử TXT ở Việt Nam, với sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, với sự bào chữa của luật sư Đức, và với sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức.
Đây là một giải pháp khả thi. Chính phủ Đức đã có nhượng bộ trong vấn đề quan trọng và hóc búa nhất, nên để đổi lại, có quyền đòi hỏi phải có “sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, với sự bào chữa của luật sư Đức, và với sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức” khi xét xử TXT. Chính phủ Việt Nam là bên có lỗi, nên được như vậy là đã quá nhiều, tốt hơn hẳn so với việc phải để “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”.
Vả lại, vẫn thường khẳng định là xét xử công bằng và công khai, thì phía Việt Nam không thể đưa ra lý do chính đáng nào để từ chối luật sư Đức và nhà báo Đức. Và nếu quả thật không định làm điều gì khuất tất, thì không việc gì phải khước từ sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức. Thậm chí, trong hoàn cảnh này, Chính phủ Việt Nam còn phải chủ động mời Chính phủ Đức cử đại diện đến chứng kiến phiên xét xử, để giảm căng thẳng ngoại giao và chứng tỏ mình xét xử công bằng.
Đây là phương án mà mọi bên đều cùng thắng (win-win). Để chứng minh nhận định này, sau đây ta sẽ lần lượt xét kiểu thắng của từng bên.
IV.4.a. Đối với Chính phủ Việt Nam, đây là phương án tốt nhất trong trường hợp đã bắt cóc TXT. Trong khuôn khổ của bài viết này và trong trường hợp này, “tốt nhất” có nghĩa là tốt hơn “phương án kiên định nói dối” (được trình bày ở phần IV.2) và “phương án thành khẩn hối lỗi” (được trình bày ở phần IV.3).
Thật vậy, đối với Chính phủ Việt Nam thì rõ ràng phương án này tốt hơn hẳn “phương án thành khẩn hối lỗi”, trong đó chấp nhận phải để “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”. Còn nếu lựa chọn “phương án kiên định nói dối”, thì chắc chắn cuối cùng cũng sẽ bị lộ, sẽ nhục nhã ê chề, mất hết thể diện ở cả trong nước lẫn trên trường quốc tế.
Một lợi thế của phương án này, là có thể giấu kín quá trình và kết quả đàm phán. Nên bộ máy tuyên truyền, báo chí vẫn có thể ca tiếp bài “ta thắng địch thua”, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của lãnh đạo đảng. Tất nhiên, phía Đức sẽ phải công bố một số nội dung để đáp ứng đòi hỏi của dư luận Đức. Nhưng chặn một số đường truy cập internet và cấm đài báo trong nước đưa tin, thì cũng có thể nâng giấc ngủ ngon cho mấy chục triệu công dân.
IV.4.b.Đối với Chính phủ Liên bang Đức, đây có lẽ cũng là phương án tốt nhất. Nếu phía Việt Nam chọn “phương án kiên định nói dối”, thì phía Đức có thể tung ra các bằng chứng vạch trần. Nhưng nếu vẫn cứ trơ trơ thì biết làm gì tiếp? Công khai tố cáo hành vi xấu xa của chính quyền cộng sản, thì dân Đức lại phẩy tay, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Trừng phạt kinh tế thì thiệt hại cả đôi bên, lại làm khổ lây cả dân lành vô tội; còn bọn tham quan thì vẫn phây phây, bởi đối với chúng thì tài sản toàn dân mới là nguồn vơ vét vô tận. Cuối cùng thì vẫn phải dàn hòa, để bắt tay hợp tác. Còn nếu phía Việt Nam nhận lỗi và đồng ý để “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”, thì lại phải gánh hậu họa đã được phân tích trong phần IV.3.d.
Nói cho cùng, sở dĩ phía Đức chưa chấp nhận, hoặc không chấp nhận dẫn độ TXT về Việt Nam, là do lo ngại TXT không được xét xử công bằng, đúng pháp luật. Điều đó là hiện thực. Nhưng nếu chọn “phương án cùng thắng”, với sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, sự bào chữa của luật sư Đức, cùng sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức, thì khả năng TXT được xét xử công bằng tăng lên rất nhiều. Còn nếu TXT vẫn không được xét xử công bằng, thì đó cũng là bằng chứng hùng hồn, chứng tỏ điều phía Đức lo ngại là đúng. Vì thế, phía Việt Nam không thể dùng lý do chưa dẫn độ hoặc không dẫn độ để biện hộ cho hành vi bắt cóc. Có nghĩa là sự cáo buộc và lên án của Chính phủ Đức là hoàn toàn chính xác.
Có thể coi sự hiện diện của phía Đức trong phiên tòa xét xử TXT tại Hà Nội là một thành công đặc biệt của Chính phủ Đức, vì chưa bao giờ Chính phủ Việt Nam chấp nhận một sự “can thiệp” tương tự. Qua đó có thể góp phần đem lại một phiên tòa mẫu mực, phù hợp với nguyên tắc nhà nước pháp quyền đích thực, thứ hoàn toàn xa lạ ở Việt Nam. Và có thể dùng nó làm cú hích khởi đầu, giúp cho các lực lượng tiến bộ ở Việt Nam có thêm động lực để tiến hành cải cách thực sự, nhằm xây dựng một nhà nước pháp quyền đích thực.
Những phiên xét xử chuẩn mực như vậy không chỉ kích thích hệ thống tòa án chuyển mình, mà còn buộc hệ thống điều tra và hệ thống công tố phải nghiêm túc rút kinh nghiệm, tránh tái diễn tập quán điều tra – công tố sai trái, đã trở thành bản năng cố hữu. Nếu hệ thống điều tra – công tố – xét xử chuyển biến theo hướng tiến bộ, thì sẽ tác động rất tích cực đến việc xây dựng xã hội dân chủ – công bằng – văn minh một cách thật sự, chứ không còn là khẩu hiệu trơ tráo.
Nếu tận dụng được vụ xét xử TXT để làm điểm khởi đầu cho một tiến trình cải cách tốt đẹp như vậy, thì có lẽ hiệu quả giúp đỡ của Chính phủ Đức đối với Nhân dân Việt Nam trong dịp này còn lớn hơn tất cả các giúp đỡ từ trước đến nay. Đó sẽ là một thành công ngoài trí tưởng tượng.
IV.4.c.Đối với luật sư Đức, nếu bào chữa trên đất Đức, để TXT không bị dẫn độ và được chấp nhận tị nạn chính trị, thì họ tin chắc là sẽ thắng. Nhưng vì kết quả rõ ràng như vậy, nên cũng chẳng đáng coi là kỳ tích của luật sư. Còn nếu bào chữa ở Việt Nam, thì chỉ riêng việc luật sư Đức tranh tụng tại tòa án CHXHCN Việt Nam đã là một kỳ tích. Hơn nữa, trách nhiệm của họ chỉ là tranh tụng để TXT không bị xét xử trái pháp luật. Nếu được như vậy thì luật sư đã đạt được một chiến công rực rỡ, hiếm hoi. Còn nếu TXT phải nhận một bản án bất công, thì đó cũng là điều mà dư luận đã quá quen, nên không ai trách cứ luật sư cả.
Tuy nhiên, phía Đức phải nghiên cứu kỹ các quy định về người bào chữa trong luật pháp Việt Nam (xem Phụ lục P2), nếu không muốn các luật sư Đức mất công bay tám ngàn rưỡi km, chỉ để đứng trước cổng của nơi xét xử, giống như hoàn cảnh của Nghị sĩ Quốc hội Đức Martin Patzelt tại phiên tòa phúc thẩm xét xử Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy vào ngày 23/9/2016.
IV.4.d.Đối với đường dây bắt cóc, họ đang đứng trước nguy cơ bị truy tố về tội “hoạt động gián điệp” (Điều 99 Bộ luật Hình sự Đức)và“tước đoạt tự do” (Điều 239 Bộ luật Hình sự Đức). Nếu phía Việt Nam chọn “phương án kiên định nói dối”, thì phía Đức buộc phải làm tận cùng, kể cả hình thức kiện ra tòa án quốc tế. Còn nếu phía Việt Nam đồng ý để “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”, thì TXT sẽ khai ra tất cả diễn biến của quá trình bắt cóc, như thế còn nguy hiểm hơn nhiều. Cho nên, “phương án cùng thắng” rõ ràng là tốt nhất, vì khi đó đường dây bắt cóc sẽ được phía Việt Nam bảo vệ an toàn nhất như có thể.
IV.4.e.Đối với khối cảm tình viên, nếu “phương án kiên định nói dối” được chọn, họ có thể sống thêm ít lâu trong không khí hò reo cổ vũ. Song đến pha thế lực cầm quyền phải cúi đầu, thì không thể ca tiếp bài ca ra trận. Còn nếu “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”, thì chẳng tránh khỏi bẽ bàng. Vậy chi bằng chấp nhận “phương án cùng thắng”, để mà cùng thắng.
IV.4.f.Đối với Nhân dân Việt Nam, đáng trăn trở nhất là trả lời câu hỏi: Có thể chống tham nhũng thành công trong một thể chế, mà tham nhũng đã trở thành bản chất, và số phận của nó tựa như bị ung thư di căn giai đoạn cuối, hay không? Nếu trả lời là không, thì chống thế nào cũng vô dụng, mà hiệu quả chỉ giống như mổ xẻ bệnh nhân ung thư đã di căn mà thôi.
Đấu đá, thanh trừng phe nhóm là chuyện thường tình trên chính trường. Trong hoàn cảnh độc đảng cầm quyền, thì đấu đá phe nhóm cũng có tác dụng tốt, vì họ tố cáo và kiềm chế lẫn nhau. Chứ nếu quyền lực được thu về một mối, trên dưới đoàn kết một lòng, thi đua tham nhũng, bao che cướp đất… thì dân còn khổ hơn nhiều.
TXT ư? Loại hắn thì tất nhiên đáng xử. Nhưng nếu hắn đáng xử 10.000 lần, thì cũng chỉ nên xử một lần thôi. Phải dành 9.999 lần cho 9.999 đồng chí khác. Đừng quên lời dạy: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.”
Rắn thì chẳng dám chặt đầu. Đỉa đem ra chém thì không hết và cũng chẳng chết. Mỗi nhát chém lại sinh thêm một con đỉa khác, phỏng ích gì? Vậy nên, bắt được TXT không nên coi là sự kiện trọng đại. Ngày xử TXT không nên coi là ngày hội lớn.
Song nếu “Trịnh Xuân Thanh có thể quay lại Đức ngay lập tức”, rồi được cư trú chính trị ở Đức, thì sẽ càng động viên đám quan chức yên tâm tham nhũng hại dân, khi gãy cầu cao chạy xa bay, ra nước ngoài đợi đến ngày vận may trở lại.
Chắc đa số người dân ủng hộ mang TXT ra xét xử. Nhưng phải xét xử một cách công bằng, bởi một tòa án nghiêm túc, phán xử đúng luật, chứ không phải bởi một mắt xích của “bên thắng cuộc”, đang được tung ra để truy kích đối phương. Rõ ràng là “phương án cùng thắng” phù hợp nhất với mục tiêu này.
Nếu giấc mơ được mô tả ở cuối phần IV.4.b trở thành hiện thực, thì sẽ có ngày hệ thống điều tra – công tố – xét xử trở nên tử tế. Sẽ xóa được nạn nghi can “tự tử” hay “tự hành hạ” bầm tím trong đồn công an. Nhờ thế, 10 năm sau, khi ra tù, Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh sẽ không còn cơ hội thu thập tư liệu, để tái phạm “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Và khi tòa án thực sự xử đúng người đúng tội, thì biết đâu nạn tham nhũng sẽ không còn hoành hành như thời “chống tham nhũng khó vì ta tự đánh ta”.
Khi “cuộc đời bỗng đẹp sao” thì thắng nhất chính là Nhân dân. Lúc ấy nhớ lại, muôn dân sẽ biết ơn những ai đã chung sức để “cùng thắng”. Và biết đâu cao hứng, còn cảm ơn cả TXT và cả đường dây bắt cóc TXT, vì đã tạo duyên cớ, để có được tình huống win-win?
Vậy là, theo “phương án cùng thắng” thì cả 5 bên “cùng thắng”. Nếu được như vậy, thay vì viết “win-win”, có lẽ nên viết “win-win-win-win-win”, để lột tả hết niềm vui “cùng thắng”.
IV.5. Tóm lại, nếu không hề có chuyện bắt cóc TXT giữa Berlin, thì tất nhiên phía Việt Nam phải thực hiện “phương án kiên định nói thật”. Như đã trình bày trong phần IV.1, không dễ thuyết phục để phía Đức và tất cả dư luận tin vào khẳng định của phía Việt Nam.
Còn nếu chuyện bắt cóc TXT là đúng sự thật, thì có 3 phương án có thể thực hiện. Thứ nhất là “phương án kiên định nói dối”. Như đã trình bày trong phần IV.2, mặc dù phù hợp với sở trường và có nhiều kinh nghiệm, nhà cầm quyền Hà Nội khó có thể phủ định cáo buộc của phía Berlin, và cuối cùng cũng bị lộ tẩy mà thôi.
Thứ hai là “phương án thành khẩn hối lỗi”, được xét trong phần IV.3. Theo phương án này, phía Việt Nam chân thành thừa nhận sai lầm và thành tâm xin lỗi, đồng thời chấp nhận đòi hỏi của Chính phủ Liên bang Đức, là để “TXT có thể quay lại Đức ngay lập tức, để cả đề nghị dẫn độ và đơn xin tỵ nạn đều có thể được xem xét đến cùng đúng theo trình tự pháp lý”. Đây là phương án mà phía Việt Nam buộc phải chấp nhận, nhưng lại khó chấp nhận. Nếu được như vậy thì phía Đức toại nguyện, nhưng “niềm vui chẳng tày gang”, vì sẽ bị khó xử với trường hợp TXT.
Thứ ba là “phương án cùng thắng”, được xét trong phần IV.4. Theo phương án này, phía Việt Nam cũng chân thành thừa nhận sai lầm và thành tâm xin lỗi, nhưng không để “TXT có thể quay lại Đức”. Đổi lại, phía Việt Nam chấp nhận sớm xét xử TXT ở Việt Nam, với sự giám sát của đại diện Chính phủ Đức, với sự bào chữa của luật sư Đức, và với sự chứng kiến đưa tin của báo chí Đức. Thông thường, phía Việt Nam không thể chấp nhận điều kiện này, với lý do vi phạm chủ quyền thiêng liêng của Nhà nước Việt Nam. Nhưng vừa mới vi phạm chủ quyền của Nhà nước Đức, mà bây giờ lại lập luận như thế, thì không khác nào tự vả vào mặt mình. Phương án này không chỉ khả thi, mà đáng nói hơn là cả 5 bên cùng thắng, đó là Chính phủ Việt Nam (IV.4.a), Chính phủ Liên bang Đức (IV.4.b), luật sư Đức (IV.4.c), đường dây bắt cóc (IV.4.d), khối cảm tình viên (IV.4.e), và đặc biệt là Nhân dân Việt Nam (IV.4.f).
V. Mấy điều cần chốt lại
V.1. Về việc chống tham nhũng
Tham nhũng đã, đang và sẽ còn hành hạ muôn dân, tàn phá đất nước, mà hậu quả có thể kéo dài hàng thế kỷ. Vì vậy, đương nhiên phải cương quyết chống tham nhũng.
Trong một nhà nước pháp quyền, lý do chống tham nhũng không thể là vì ghét, hay vì ghen, mà phải dựa trên cơ sở pháp lý: Tham nhũng là một hành vi phi pháp. Không thể chống hành vi phi pháp bằng hành vi phi pháp. Nên đương nhiên, mọi hoạt động chống tham nhũng phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, đúng với quy định của pháp luật.
Nếu cầm quyền mà hành xử phi pháp, thì xét về phương diện pháp lý, cũng chẳng hơn gì kẻ tham nhũng. Hơn nữa, cách hành xử giang hồ sẽ khiến dư luận phải đặt câu hỏi: Thứ ấy có đủ tư cách để đứng ra chống tham nhũng hay không? Và có thật là chống tham nhũng, hay chỉ mượn danh chống tham nhũng, để triệt hạ đối phương, nhằm thay ca tham nhũng và phân chia lại thị phần tham nhũng?
Nếu muốn dư luận bớt nghi ngờ, thì hãy xử ngay bao trường hợp dễ làm. Nhiều tội đồ còn nhởn nhơ ngay trong nước, thậm chí còn đương chức, sao không bắt đi, mà gác lại, rồi tập trung bắt bằng được kẻ đã trốn ra nước ngoài? Nếu muốn chứng tỏ thực tâm chống tham nhũng, thì hãy ưu tiên làm trước chuyện dễ, đó là xử lý trước sâu mọt ở phe mình. Dễ vì không bị các phe khác chống lại, mà còn được tiếng thơm “Hoàng thượng công minh”. Còn tầm tham nhũng thì cũng na ná như nhau. Đằng nào thì hạng chuyên cơ cũng được miễn trừ, còn hạng nhất, hạng thương gia và hạng phổ thông thì phe nào mà chẳng có.
V.2. Về vụ TXT
Nếu quả thật đã bắt cóc TXT ở Berlin để đưa về Hà Nội “đầu thú”, thì đó là một điều hoàn toàn không thể chấp nhận được. Hành vi ấy vi phạm nghiêm trọng luật pháp Đức, luật pháp quốc tế và cả luật pháp Việt Nam. Vì vậy không thể coi hành vi phi pháp ấy là hành vi chống tham nhũng. Không gì có thể biện minh được cho một hành động ngang ngược như vậy.
Trong trường hợp này, cách khắc phục hợp lý nhất là nhanh chóng thừa nhận sự thật sai lầm, thành thật xin lỗi phía Đức, và chân thành bàn bạc với phía Đức để tìm ra giải pháp tốt nhất cho cả hai bên, không chỉ nhằm khắc phục hậu quả, mà còn để cùng nhau hợp tác có hiệu quả trong tương lai.
Nếu vì đặt sĩ diện cá nhân lên trên lòng tự trọng dân tộc, lên trên quyền lợi quốc gia, mà cố phủ định sự thật, hoặc chần chừ quá lâu, thì có thể sẽ gây ra những hậu quả vô cùng to lớn, không thể lường hết được. Lúc đó, dư luận sẽ phải đặt câu hỏi: Xét về phương diện gây thiệt hại cho dân cho nước, thì giữa TXT và băng bắt cóc TXT, tội ai to hơn ai? Và nếu chống tham nhũng mà gây tác hại còn lớn hơn cả tham nhũng, thì chống để làm gì?
Khi giải quyết vấn đề TXT, cần lưu ý rằng: Khúc mắc hiện nay không chỉ nằm ở mối quan hệ giữa chính quyền Việt Nam với chính quyền Đức, mà còn ở mối quan hệ giữa dàn luật sư Đức của TXT với chính quyền Đức, và giữa dàn luật sư Đức với chính quyền Việt Nam. Luật sư Việt Nam có thể bị chính quyền khống chế, nhưng luật sư Đức chỉ phục tùng pháp luật Đức, Chính phủ Đức không thể chi phối họ. Chính quyền Đức có thể thỏa thuận và nhượng bộ với chính quyền Việt Nam, nhưng nếu thỏa thuận ấy vi phạm pháp luật Đức, thì dàn luật sư ấy sẽ không để yên. Ở Đức, luật sư thắng kiện Chính phủ là điều có thể, lại rất vinh quang, được tiếng tăm tốt cho nghề nghiệp, vậy thì đâu dễ bỏ qua. Chính phủ Đức có thể thỏa hiệp vì những mục tiêu và quyền lợi khác nhau, nhưng dàn luật sư Đức của TXT thì chỉ có mục tiêu duy nhất, gắn liền quyền lợi bản thân, đó là thắng trong vụ này. Vì vậy, trong mọi nước cờ đều phải tính đến yếu tố luật sư Đức.
V.3. Với dư luận
Trong vụ TXT, Chính phủ Đức đã xử lý đúng với quy định của pháp luật Đức, theo đúng nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Vì vậy, không thể dùng lý do phía Đức chưa chấp nhận dẫn độ TXT, để biện hộ cho “sự vi phạm trắng trợn chưa từng có đối với luật pháp Đức và luật pháp quốc tế”. Và cần hiểu rằng: Phản ứng phẫn nộ và nghiêm khắc của phía Đức là hoàn toàn chính đáng.
Nếu chưa hiểu được cách xử lý và phản ứng của phía Đức trong vụ TXT, thì hãy cố gắng nghiên cứu tìm hiểu, để hiểu cơ sở pháp lý cho hành động của họ. Đừng quá tự tin vào tầm kiến thức của bản thân, mà cố thủ trong lô cốt tư duy, rồi tùy tiện bắn ra những lời chỉ trích vô lý. Và đừng quên rằng: Vụ việc diễn ra trên đất Đức, nên phải tuân theo luật của Đức, chứ không phải “luật rừng”.
Nhiệt thành ủng hộ chống tham nhũng là đúng, là tốt. Nhưng cần tỉnh táo, để nhận biết bản chất của từng trận và phân biệt đúng sai của từng hành động. Cũng giống như đi xem bóng đá, ít nhất cũng phải phân biệt được đội nào đá với đội nào và đá đấm ra sao. Không thể cứ thấy đá là hò hét hoan hô, mà không thèm quan tâm xem đang đá bóng hay đang đá người, rồi quay ra chửi trọng tài khi thấy giơ thẻ đỏ.
Phụ lục
P1. Ví dụ minh họa về vai trò của giới tinh hoa trong việc lập hiến
Hiến pháp Mỹ được soạn thảo và thông qua tạiHội nghị Hiến pháp (Constitutional Convention), diễn ra từ ngày 25/5/1787 đến 17/9/1787 tại Philadelphia. 74 đại biểu được chỉ định, nhưng chỉ 55 người có mặt. Họ thực sự đại diện cho tinh hoa của nước Mỹ thuở ấy, đến mức Thomas Jefferson (Tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ, lúc đó đang ở Paris với tư cách bộ trưởng của Pháp) đã viết cho John Adams (Tổng thống thứ 2 của Hoa Kỳ, lúc đó đang là Bộ trưởng ở Anh) rằng: “Đó thực sự là một đội hình của các á thánh” (It really is an assembly of demigods).
Sau gần 4 tháng làm việc, với bao thỏa thuận và thỏa hiệp, ngày 17/9/1787 phương án cuối cùng được hoàn thành và 39 người đã ký tên vào Hiến pháp. Tuy nhiên, nhiều người không hài lòng với kết quả ấy, đến mức một số đại biểu đã bỏ hội nghị trước lễ ký, và 3 người còn ở lại nhưng khước từ ký tên.
Tiếp đó, 3 Bang đã phê chuẩn Hiến pháp trong tháng 12/1787, 8 Bang phê chuẩn trong năm 1878, 2 Bang còn lại phê chuẩn trong năm 1789 và năm 1790. Trong khi đạt được 100% đồng thuận tại các Bang Delaware, Georgia và New Jersey, thì chỉ nhận được 52% đồng thuận tại Bang Rhode Island, 53% tại 2 Bang Massachusetts và Virginia, và 55% tại Bang New Hampshire. Tổng cộng, trên cả 13 Bang, có 1.648 đại biểu tham gia bỏ phiếu phê chuẩn, trong đó có 1.071 phiếu tán thành và 577 phiếu không tán thành.
Như vậy, Hiến pháp Mỹ được sáng tạo bởi 55 trí tuệ tinh hoa, cuối cùng chỉ 39 vị đồng ý đứng ra ký tên với tư cách đồng tác giả và trực tiếp chịu trách nhiệm trước lịch sử Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. 1.648 đại biểu chọn lọc chỉ đóng vai trò đại diện cho 13 Bang để biểu quyết thông qua, chứ không được tham gia vào quá trình viết ra Hiến pháp.
Nói nôm na, dân chủ nghị trường chỉ dừng lại ở khâu biểu quyết thông qua văn bản pháp luật, chứ không được tham gia nhào nặn nội dung hay tỉa tót câu chữ của văn bản, không được can thiệp vào khâu soạn thảo văn bản của các chuyên gia
Giả sử, nếu Hiến pháp Mỹ không được viết bởi 55 trí tuệ tinh hoa độc lập, mà là kết quả của trí tuệ tập thể 500 đại biểu dưới sự điều khiển của thế lực nào đó, và không có ai đứng ra chịu trách nhiệm trước lịch sử, thì không thể tồn tại suốt 230 năm, cho đến tận ngày hôm nay.
P2. Mấy điều phía Đức cần lưu ý về người bào chữa
Để thành công trong hoàn cảnh khác thường, Chính phủ Đức nên chọn ra một tổ bào chữa phù hợp. Đương nhiên, các luật sư Đức mà TXT đã thuê, chẳng hạn như bà Petra Isabel Schlagenhauf và ông Victor Pfaff, có thể tham gia tổ bào chữa này. Nhưng cũng nên bổ sung thêm một số người hiểu biết và có kinh nghiệm về môi trường xét xử tương tự như ở Việt Nam. Hơn thế nữa, trong quá trình đàm phán, phía Đức phải yêu cầu phía Việt Nam thừa nhận các thành viên của tổ bào chữa Đức là những “người bào chữa” của TXT theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13.
Cần lưu ý quy định ở Điều 72 Khoản 1 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
“Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định…”
Và nhớ rằng, ở Việt Nam bị cáo hay buộc phải viết đơn từ chối luật sư. Nên nếu người bào chữa nào bị TXT từ chối kiểu ấy, thì phía Đức phải yêu cầu phía Việt Nam xếp người đó vào diện được “cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định”.
Hơn nữa, cần lưu ý quy định ở Điều 72 Khoản 2 Bộ luật Tố tụng Hình sự, về những người có thể được đứng ra bào chữa, đó là:
“a) Luật sư;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân…”
Đừng nghĩ đơn giản, những người bào chữa do phía Đức cử toàn là luật sư, nên thuộc diện “luật sư”. Họ chỉ là “luật sư” theo tiêu chuẩn Đức. Còn ở Việt Nam, căn cứ vào Luật Luật sư số 65/2006/QH11, thì theo “tiêu chuẩn luật sư” họ phải là “công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc” (Điều 10), và theo “điều kiện hành nghề luật sư” họ “phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”(Điều 10). Khó có thể tìm được một luật sư Đức phù hợp, mà là “công dân Việt Nam”, có “Chứng chỉ hành nghề luật sư” (của Việt Nam) và “gia nhập một Đoàn luật sư” (của Việt Nam).
Nếu xếp các luật sư Đức vào diện “bào chữa viên nhân dân” thì cũng không được, vì theo Điều 72 Khoản 3 thì “Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam… được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử…”.
Do đó, nếu không còn cách nào khác, thì phía Đức phải yêu cầu phía Việt Nam thừa nhận các thành viên của tổ bào chữa Đức thuộc diện còn lại, đó là “người đại diện của người bị buộc tội”.
Nếu không đàm phán kín kẽ về người bào chữa, thì có thể sẽ phải đối diện với những hoàn cảnh trớ trêu. Chẳng hạn: Khi các luật sư Đức định bước vào nơi xử án thì bị chặn lại, với lý do sau khi kiểm tra giấy tờ thì phát hiện ra họ không đủ tiêu chuẩn của người bào chữa, tất nhiên là theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đến khi Bộ Ngoại giao Đức can thiệp xong thì vụ án cũng đã xử xong, vì phiên xét xử ở Việt Nam có thể chỉ diễn ra trong một ngày, chứ không phải kéo dài hàng tháng hàng năm như ở Đức.
(Kiến Thức) – Ông Nguyễn Minh Hùng, Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty VN Pharma quê Đồng Tháp, dù là đại gia ngành dược nhưng lại khá kín tiếng với giới truyền thông.
(Kiến Thức) – Ông Nguyễn Minh Hùng, Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công tyVN Pharma quê Đồng Tháp, dù là đại gia ngành dược nhưng lại khá kín tiếng với giới truyền thông.
Thông tin cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an thực hiện lệnh khám xét Công ty VN Pharma tại quận 10, TP HCM vào tối qua đã khiến dư luận vô cùng quan tâm.
Thực tế, chẳng phải đợi đến khi Công ty VN Pharma bị khám xét thì từ trước đó, tiếng tăm của nó đã nổi như cồn trong làng dược. Vậy Công ty VN Pharma nổi tiếng như thế nào, làm ăn ra sao, chủ tịch Hội đồng quản trị là người như thế nào mà sự kiện này lại thu hút sự chú ý của dư luận đến vậy?
Gần đây, giới bác sĩ, dược sĩ ở TP HCM rất ngạc nhiên về việc VN Pharma trúng thầu quá nhiều mặt hàng thuốc vào các bệnh viện. VN Pharma chỉ mới thành lập cách đây hơn 3 năm (2011) do ông Nguyễn Minh Hùng (quê tỉnh Đồng Tháp) làm Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc. Ngoài kinh doanh thuốc, công ty này còn hoạt động đa lĩnh vực trong ngành y tế, vệ sinh và sinh hóa phẩm y tế, dịch vụ kho bãi và hậu cần ngành dược, phòng khám…
Là đại gia trong ngành dược nhưng ông Hùng khá kín tiếng với giới truyền thông. Theo thông tin ban đầu, ông Hùng bị bắt vì có hành vi làm giả 7 bộ hồ sơ đấu thầu thuốc vào bệnh viện và mới trúng gói thầu trị giá 800 tỷ đồng. Ngoài ra, người đứng đầu Công ty VN Pharma còn bị cho là dính líu đến hành vi buôn lậu. Ông Hùng hiện được di lý ra Hà Nội để phục vụ công tác điều tra.
Lực lượng an ninh làm nhiệm vụ tại trụ sở Công ty VN Pharma tối 19/9. Ảnh bé là ông Nguyễn Minh Hùng, Chủ tịch HĐQT công ty.
Trong ngành dược VN, Công ty CP VN Pharma là một công ty “sinh sau đẻ muộn” nhưng tốc độ phát triển và chiếm lĩnh thị trường dược phẩm của công ty nhanh như vũ bão.
Tham gia thị trường phân phối dược phẩm từ năm 2011, đến cuối tháng 5/2012 công ty này tiến hành đại hội cổ đông, đại hội công nhân viên lần đầu tiên.
Chỉ trong vòng sáu tháng đầu năm 2012, VN Pharma thành lập VN Pharma An Giang (27/2/2012) và VN Pharma Cà Mau (18/6/2012).
Cuối năm 2012, công ty này thành lập chi nhánh tại Hà Nội để mở rộng hệ thống phân phối ra miền Bắc.
Công ty còn liên tiếp thành lập các đơn vị thành viên như VN Medicare (tháng 11/2012) hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh và sinh hóa phẩm y tế; VN Logistics (tháng 3/2013) hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ kho bãi và hậu cần ngành dược; VN Clinic (tháng 7/2013) hoạt động trong lĩnh vực phòng khám.
Công ty CP VN Pharma có nhiều công ty thành viên khác như Công ty TNHH MTV dược Nam Anh, Công ty CP dược Nam Hùng, Công ty TNHH MTV dược VN Pharma.
Tháng 8/2013, Công ty CP VN Pharma nâng vốn điều lệ lên 40 tỉ đồng.
Chưa đầy một năm sau (ngày 5/7/2014), tại đại hội đồng cổ đông lần 3 (nhiệm kỳ 1/2014) ông Nguyễn Minh Hùng báo cáo năm 2013 doanh thu bán hàng hợp nhất của công ty này đạt 971 tỉ đồng.
Dự kiến năm 2014, doanh thu bán hàng của Công ty CP VN Pharma sẽ đạt 1.077 tỉ đồng…
Tuy chỉ là một công ty cổ phần ra đời mới vài năm nhưng tháng 5/2014, công ty trúng thầu 46 mặt hàng thuốc với trị giá lên tới hơn 267,8 tỉ đồng.
Công ty CP VN Pharma cũng thực hiện nhiều dịch vụ như dịch vụ kho bãi và logistics, xuất nhập khẩu, phân phối, nghiên cứu – đăng ký thuốc, xúc tiến thương mại, dịch vụ phòng khám.
Trong đó, công ty cung cấp các dịch vụ tư vấn đăng ký lưu hành thuốc; nộp hồ sơ xin cấp đăng ký lưu hành cho thuốc sản xuất trong nước và nước ngoài; nộp hồ sơ và xin cấp giấy phép lưu hành cho thực phẩm chức năng sản xuất trong và ngoài nước; tư vấn thủ tục thay đổi tên sản phẩm, tên nhà sản xuất, nhãn hiệu hàng hóa, tuổi thọ thuốc hoặc các thông tin khác liên quan tới các sản phẩm đã đăng ký lưu hành; tư vấn và hỗ trợ tra cứu, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, bản quyền hoặc kiểu dáng công nghiệp tại các cơ quan chức năng của Việt Nam.
Trước đó, khoảng 21h ngày 19/9, nhiều cảnh sát có mặt tại trụ sở khang trang của Công ty VN Pharma trên đường 3/2, phường 14, quận 10, thực hiện việc khám xét ở các phòng làm việc của VN Pharma.
Sau khoảng 30 phút, cảnh sát đã thu giữ nhiều giấy tờ, tài liệu được cho là có liên quan đến hoạt động của công ty, nghi vi phạm pháp luật.
Theo báo Thanh Niên, động thái khám xét trên của nhà chức trách diễn ra sau khi đã bắt khẩn cấp Chủ tịch hội đồng quản trị – Tổng giám đốc của công ty này, ông Nguyễn Minh Hùng. Ông này đã được di lý ra Hà Nội để phục vụ công tác điều tra.
TTO – Nguyễn Minh Hùng – nguyên chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc công ty Cổ phần VN Pharma cùng 8 đồng phạm bị cáo buộc đã nhập khẩu lô thuốc H-Capita 500mg chữa ung thư kém chất lượng, không rõ nguồn gốc.
bị cáo Nguyễn Minh Hùng – nguyên chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc công ty Cổ phần VN Pharma – Ảnh: HỮU KHOA
Sáng nay 21-8, TAND TP. Hồ Chí Minh mở phiên xét xử sơ thẩm vụ án làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức và buôn lậu xảy ra tại công ty cổ phần VN Pharma.
9 bị cáo bị đưa ra xét xử gồm Nguyễn Minh Hùng (nguyên chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc công ty Cổ phần VN Pharma); Nguyễn Trí Nhật, Ngô Anh Quốc (đều nguyên phó giám đốc VN Pharma), Phạm Anh Kiệt (Tổng giám đốc công ty Dược Sapharco); Võ Mạnh Cường (giám đốc công ty TNHH Thương mại hàng hải quốc tế H&C).
4 bị cáo còn lại nguyên là cán bộ công ty VN Pharma.
Nguyên giám đốc VN Pharma Nguyễn Minh Hùng trả lời thẩm vấn tại tòa – Clip: HỮU KHOA
Chứng nhận thuốc chữa ung thư đều là giả
Cáo trạng thể hiện khi công ty cổ phần VN Pharma nhập khẩu hơn 9.000 hộp thuốc H-Capita 500mg là thuốc chữa ung thư, Cục quản lý dược Bộ Y tế đã nghi ngờ về nguồn gốc thuốc nhập khẩu.
Vì thế, Cục đã yêu cầu Nguyễn Minh Hùng và Võ Mạnh Cường giải trình, đồng thời thanh tra, kiểm tra công ty VN Pharma và niêm phong, không cho bán thuốc này ra thị trường.
Kết quả điều tra bước đầu cho thấy năm 2013, Nguyễn Minh Hùng đặt Võ Mạnh Cường mua thuốc tân dược có nhãn mác do công ty Helix Canada sản xuất để bán và đấu thầu cung cấp cho các bệnh viện ở VN, trong đó có thuốc H-Capita 500mg Caplet.
Do không có hồ sơ kỹ thuật thuốc cũng như tiêu chuẩn và phương pháp kiểm nghiệm thuốc để nộp cho Cục Quản lý dược thẩm định theo quy định của Bộ Y tế, Nguyễn Minh Hùng đã chỉ đạo hai nhân viên viết hồ sơ kỹ thuật thuốc H-Capita 500mg để hợp thức hồ sơ nộp cho Cục quản lý dược cấp giấy phép nhập khẩu và đăng ký lưu hành thuốc.
Trên cơ sở hồ sơ của công ty VN Pharma cung cấp, Cục Quản lý dược duyệt nhập đối với đơn hàng trên. Tháng 4-2014, Công ty VN Pharma đã mở tờ khai hải quan nhập khẩu hơn 9.000 hộp thuốc H-Capita 500mg về VN.
Kết luận giám định của Bộ Y tế thể hiện lô thuốc H-Capita 500mg nói trên chứa 97% hoạt chất capecitabine – là thuốc không rõ nguồn gốc, kém chất lượng, không được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người.
Mặc dù là người đặt mua thuốc để bán cho VN Pharma nhưng bị can Võ Mạnh Cường khai không biết nguồn gốc lô thuốc nêu trên được sản xuất ở đâu.
Quá trình điều tra cho thấy số thuốc được dán tem từ Ấn Độ về Sigapore, sau đó nhập khẩu về Việt Nam. Tuy nhiên xác minh mã vạch, mã số in trên vỏ thuốc thì không được đăng ký bởi quốc gia nào. Các giấy chứng nhận chất lượng thuốc đều là giả.
Kết quả điều tra và ủy thác tư pháp cho thấy không có công ty nào đăng ký kinh doanh như giấy tờ của VN Pharma nộp cho Cục quản lý dược. Cơ quan điều tra nhận định hơn 9.000 hộp thuốc H-Capita 500mg đều không rõ nguồn gốc.
Ngoài việc làm giả hồ sơ thuốc H-Capita 500mg, từ năm 2012 đến năm 2014, Nguyễn Minh Hùng còn chỉ đạo nhân viên thuê dược sỹ để chỉnh sửa nhiều bộ hồ sơ thuốc khác, giả con dấu và chữ ký của giám đốc, nhân viên công ty Helix Canada để VN Pharma đăng ký lưu hành thuốc và xin cấp phép nhập khẩu tại Cục Quản lý dược.
Bị cáo cũng làm giả hợp đồng mua bán thuốc với công ty Austin Hồng Công để làm thủ tục nhập khẩu một số lô thuốc (H2K- Levofloxacin, H2K-Ciprofloxacin)… Trị giá hàng buôn lậu là hơn 5 tỷ đồng.
Các bị cáo tại phiên tòa – Ảnh: HỮU KHOA
Thuốc ung thư giả là bình thường?
Khai trước tòa, bị cáo Nguyễn Minh Hùng (nguyên giám đốc VN Pharma) cho biết bị cáo kinh doanh nhập khẩu thuốc từ Canada.
Từ năm 2012, bị cáo quen biết Nguyễn Mạnh Cường và đặt Cường mua thuốc mang nhãn mác của công ty Health 2000 Canada. Hai bên thống nhất giá thuốc là 0,8USD/1 viên.
Có lần Cường dẫn đi gặp một người tự giới thiệu là giám đốc công ty Health Canada để bàn việc nhập khẩu hơn 9.000 hộp thuốc H-Capita 500mg về VN. Trị giá đơn hàng là 5 tỷ đồng. Sau này khi bị bắt, bị cáo mới biết công ty công ty Health Canada đã bị giải tán.
Nguyễn Minh Hùng thừa nhận quá trình mua thuốc, thừa nhận đã “không chuẩn” khi dùng giấy tờ giả để hoàn thiện hồ sơ nhập khẩu thuốc như cáo trạng truy tố.
“Tuy nhiên khi bị phát hiện do các khách hàng phản ánh lại thuốc không đạt chất lượng, bị cáo đã chỉ đạo lấy thuốc đi kiểm nghiệm. Bị cáo cũng chứng minh bằng cách mời Cục quản lý dược Bộ Y tế để kiểm tra lô thuốc, đề nghị công an hỗ trợ xác minh..” – Bị cáo Hùng khai trước tòa.
Kết quả xác minh cho thấy lô thuốc không đạt tiêu chuẩn, không được sử dụng cho người. Hùng khai trước tòa: “Bị cáo mua sản phẩm này cũng giống mua sản phẩm khác. Khi thực hiện có những việc không chuẩn, nhưng bị cáo khẳng định đây là sản phẩm kinh doanh bình thường, không có gì đặc biệt mà làm giả hoặc buôn lậu…”.
Cáo trạng xác định bị cáo Hùng đã chỉ đạo nhận viên thuê dược sĩ để viết, chỉnh sửa hồ sơ kỹ thuật thuốc H-Capita 500mg, sau đó đưa các hồ sơ này để Cục quản lý dược Bộ Y tế cho phép nhập khẩu thuốc.
Tuy nhiên đứng trước tòa, Hùng cho rằng việc thuê dược sĩ “viết tiêu chuẩn thuốc là để yêu cầu phía công ty sản xuất dựa trên các tiêu chuẩn do bị cáo đặt ra”.
Phiên tòa đang tiếp tục xét hỏi. Dự kiến vụ án sẽ được xét xử trong 8 ngày.