ĐÁNH MẤT QUÊ HƯƠNG

0
110
Vạn Giã

Thụy Mân 

PHẦN II 

Ký ức tôi đôi khi quay về một buổi chiều ở đảo Phú Quốc.  Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1975.  

Nói về buổi chiều này thì phải đi ngược lại mấy tuần trước đó, một ngày cuối tháng Ba, khi Ba tôi phải ở lại căn nhà mướn ở Nha Trang để coi ngó đồ đạc gia đình mang vào từ quê, trong khi một số người thân, mẹ và mấy nhóc chúng tôi tìm cách hướng xa hơn về phía Nam.  Dự định ba sẽ tìm cách đi sau, nhưng chúng tôi đã lạc nhau từ đó, hỗn loạn xảy ra và đường bộ giữa Nha Trang và Cam Ranh đã bị cắt đứt. 

Tìm được một mối liên lạc đưa người tản cư ra những chiếc tàu lớn đang đậu ngoài khơi, chúng tôi đành phải đi trước. Khi chiếc thuyền nhỏ của người đánh cá đưa gia đình chúng tôi ra khơi thì đã có những người cứu nạn chờ sẵn trên các ca nô.  Chỉ có mấy chiếc ca nô này mới có thể áp sát được vào chiếc tàu thủy lớn.  Đêm tối nhưng ánh sáng từ những ngọn đèn trên boong tàu có thể soi đến một vùng quanh nó.  Từ chiếc ca nô này người ta có thể leo lên những chiếc thang dây được thả  xuống cho những người tản cư chúng tôi.  Người lớn dặn chúng tôi phải ôm chặt vào cổ họ khi được cõng lên thang vì cả hai tay họ đều bận.  Không cần dặn, chúng tôi cũng ôm thật chặt bởi vì chúng tôi biết sinh mạng mình hoàn toàn gắn chặt với vòng tay ôm người lớn cõng mình: Cách đó chỉ mấy phút, một người đàn ông cõng mẹ đi lên thang dây,  bà cụ có lẽ già yếu lơi lỏng tay,  bà rớt xuống nước vừa lúc chiếc ca nô dập dềnh rời xa thành tàu. Những người xung quanh chỉ có thể nghe một tiếng bõm nhỏ là bà đã mất tăm trong làn nước tối đen.  Người thân của bà kêu khóc não lòng :”Mẹ ơi!  Mẹ ơi!”, nhưng xung quanh trong cơn hỗn loạn, ai cũng lo lấy thân mình,  không ai nghĩ đến việc kêu cứu những người trên con tàu lớn. Tất cả đã xảy ra trước mắt chúng tôi như một đoạn phim kinh hoàng được chiếu rất nhanh

Lên đến boong tàu,  vừa đếm lại đầu người trong gia đình, chúng tôi vừa mừng vì mọi người đã đủ cả, thì con bé em út bỗng dưng khóc òa.  Nó hỏi “Ba đâu?  Ba đâu?”, trong khi nó biết ba không có mặt với gia đình đã cả tuần nay.  Vốn mê tín và đang rối bời, mẹ tôi nghĩ đến một điềm gở… 

Những người di cư có thể tìm chỗ cho mình trong khoang thứ hai và thứ ba, kể từ boong tàu, nhưng ở đó được một đêm thì cảm thấy không khí rất ngột ngạt, mẹ tôi mới đi lên xem xét tầng trên cùng… Mẹ tìm được một góc dưới chân một cầu thang trên boong tàu và kéo cả nhà lên trú ẩn ở nơi đó.  Không phải lúc nào cũng có bóng mát ở cái góc đó, nhưng không khí thì thoáng đãng vô cùng.  Người lớn dùng những tấm khăn lớn và mền để làm thành một cái lều nhỏ che nắng. 

Được nửa ngày như thế thì chúng tôi bắt đầu đói và không đủ nước uống.  Chiếc tàu lớn này là của New Zealand, một trong những chiếc tàu tình nguyện làm việc nhân đạo cứu người tản cư từ miền Trung vào Nam. Họ có nước uống trên tàu, nhưng dĩ nhiên không có đủ cho con số vài ngàn người nhiều hơn dự định.  Để tránh tranh giành, họ kêu gọi người dân sắp hàng để nhận nước và một hộp đồ ăn khô, nhận xong họ đóng mộc lên tay người nhận để làm dấu người đã nhận rồi.  Nhiều người nhận xong, tìm cách chùi dấu mực, rồi quay lại hàng để nhận lần nữa. 

Bọn nhỏ chúng tôi chỉ đủ nước cầm chừng do người lớn nhường cho, và có lẽ biết thân, hay không còn đủ sức, chúng tôi nằm xếp một chỗ.  Mẹ tôi tháo vát,  biết tìm cách nấu cơm, đã nấu được một nồi cơm nhỏ, gạo mua được với giá vô cùng đắt từ gia đình hai người “hàng xóm” nằm cạnh chúng tôi. Không biết ở đâu người lớn tìm được một ít muối và chúng tôi được cho mỗi đứa một vắt cơm với muối hột. 

Bắt đầu từ ngày thứ hai trên tàu tràn lan một cơn dịch đau mắt đỏ. Ai đó đã bị mắc phải, và điều kiện thiếu vệ sinh trên tàu đã làm phần lớn chúng tôi bị vướng nạn này.  Sáng dậy, mẹ tôi phải hòa muối vào nước ấm, rửa mắt cho từng đứa, chúng tôi mới “mở mắt” ra nổi.  Nhờ tính chất sát trùng của muối, chúng tôi đã không bị nặng như nhiều người khác trên tàu. 

Cuối ngày thứ ba chúng tôi đã ở ngoài khơi gần cảng Sài Gòn,  nhưng không được phép lên bờ vì tình hình chính trị đang lộn xộn.  Sau đó thì người ta quyết định đưa chúng tôi ra thẳng đảo Phú Quốc. 

Phú Quốc ngày đó còn rất thưa dân, không đủ chỗ chứa chúng tôi trong thị xã, người ta đưa chúng tôi đi qua một vùng đất khô rốc và quạnh hiu, độ đâu chừng hơn chục cây số thì đến ở tạm các lán giữa rừng trước đây dành cho tù nhân, giờ đã bỏ trống. Mỗi gia đình được phân chia một hay hai sàn gỗ trong lán. Mỗi lán có hai hàng sàn gỗ như thế ở hai bên, mỗi bên có độ 10 sàn gỗ.  Lán có hai cửa vào từ hai đầu, nhưng ai cũng có thể vào ra tự nhiên vì không có cửa nẻo gì cả.  Như vậy những người tù ở đây đã có được một sự tự do ở một mức độ giới hạn nào đó. Nói cho cùng, rất khó để tù nhân trốn thoát vì không có làng mạc gần đây,  và thị xã thì ít nhất cách nơi này 15 cây số. 

Sàn gỗ cao đến khoảng rốn người lớn, trên đó có thể ngủ được hai người lớn, hay bốn năm đứa nhóc nếu nằm theo chiều ngang.  Mẹ và bốn chị em chúng tôi  được phân chia một sàn như thế.  Một buổi trưa  ngủ không được, tôi trở người quay mặt vào bức tường gỗ và nhận ra có những dòng chữ nhỏ li ti rất đẹp, đúng ra là những công thức toán học,  tôi đoán thế vì nó trông giống với những công thức trong quyển sách toán lớp 11, 12 của người anh họ, tôi thấy được trong những lần tò mò mở ra xem.  Lần đầu tiên tôi thấy được một khía cạnh khác của những người tù, họ không hẳn chỉ là những người gian ác, đầy tội lỗi như định kiến tôi từng có từ những điều nghe đến về họ… 

Nhỏ em út lại khóc:”Ba đâu? Ba đâu rồi?” Thiệt tình!  Nó không hiểu mấy lời nó kêu khóc làm cho người khác quặn ruột thế nào…Một lần nữa sự mê tín lại khiến mẹ tôi lo lắng miên man. 

Ông nội viết lên giấy một tờ yết thị: “Cha mẹ, và vợ con …(tên tuổi, quê quán) đã đến được nơi đây…tìm con trai là (tên tuổi, quê quán). Nếu con có thấy được tin này thì hãy tìm mọi người ở trại số… này. Nếu ai thấy được dòng này và có thể nhắn tin đến con trai tôi, gia đình chúng tôi vô vàn biết ơn.”

Buổi chiều ông nội đi dán mấy tờ yết thị, dẫn tôi đi theo.  Nhìn mấy cái bảng chằng chịt những tờ giấy đủ màu, đủ kiểu chữ, được gắn phong phanh, và chúng bay phần phật trong gió, tôi đã nghĩ, nếu ai tìm được thân nhân từ những tờ giấy này ắt hẳn là chuyện nhiệm mầu. 

Nhưng chuyện nhiệm mầu đã xảy ra một buổi chiều cách đó mấy hôm khi chúng tôi đang quây quần ăn bữa tối thì nghe một giọng nói quen thuộc, cùng lúc một bàn tay đặt lên đầu vuốt tóc nhỏ em út: “Cha! Mẹ! Cả nhà ơi!” Ôi ba tôi, bằng xương bằng thịt đứng trước mặt chúng tôi. Cả nhà ôm nhau khóc, nhỏ những giọt nước mắt vui mừng. 

Mấy hôm sau, một buổi chiều đầu tháng Tư, buổi chiều đọng lại trong ký ức, tôi vẫn còn nhớ chúng tôi chơi quanh quẩn gần đó trong lúc mẹ và mấy người lớn đang vo gạo, giặt giũ bên cái giếng nước chung đầu trại (một điểm lạ là bị vây bọc bởi biển khơi nhưng nước ở đảo này rất trong và ngọt), thì có mấy người lớn chuyền nhau cái tin: chẳng bao lâu nữa người ta sẽ tụ họp mọi người lại để đưa chúng tôi tản cư qua Thái Lan, với tình hình này miền Nam cũng có thể mất luôn với cộng sản.  Những người lớn nói với nhau tin đó với một vẻ lo lắng, ái ngại tột cùng. Có người bắt đầu mếu máo :”Ruộng nương mồ mả ông bà mình còn cả ngoài quê (miền Trung), giờ người ta đưa mình qua bên Thái Lan để làm gì?”, có người nói :” Chắc phải tìm cách trốn trại,  tìm đường về Sài Gòn rồi từ từ sẽ tìm đường về quê.”  Rồi họ ôm nhau khóc. 

Thế là mấy hôm sau, cũng với tài tháo vát của mẹ tôi, chúng tôi đã là một trong những gia đình đầu tiên trốn trại, dắt díu nhau về Sài Gòn, sống ở đó với gia đình cậu tôi ba tuần trước khi Sài Gòn thất thủ. 

Một số người không có phương tiện trốn đi, đã ở yên lại trại và sau đó dù muốn hay không họ cũng được đưa qua Thái Lan vào những ngày cuối cùng của tháng Tư năm đó. 

Phần gia đình tôi ở lại Sài Gòn khoảng một tháng thì bồng trống về quê cũ, để được gắn bó với mồ mả ông bà, với nơi chôn nhau cắt rốn.  Sự thật thì chúng tôi quay về để nếm trải ngọt đắng “thiên đường” nhiều năm trước khi dồn hết của cải dành dụm được để lại từ bỏ mồ mả ông bà, quê hương một lần nữa lao mình vào những cuộc phiêu lưu đầy bất trắc, hiểm nghèo, gian nan trên biển khơi.

Và ngày đó là buổi đầu của cuộc di cư triền miên suốt nửa thế kỷ qua của dân Việt.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here