Chuyện thông tin (kỳ 3, cuối)

0
51
 Nguyễn Thông
Tuần trước (đầu tháng 8) tôi tình cờ đọc bài rất hay của bác Vũ Thư Hiên trên trang phây búc (Facebook) nhà bác. Bác Hiên là con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, mà cụ Huỳnh là bí thư, trợ lý thân cận của cụ Hồ những năm sau cách mạng tháng 8.1945. Năm 1967-1968, ông Sáu Búa Lê Đức Thọ khi ấy là Trưởng ban Tổ chức trung ương (chức này quyền hành chỉ kém Bí thư thứ nhất, tức Tổng bí thư sau này) đã liên minh với ông Lê Duẩn triệt hạ tất cả những người không ăn cánh với hai ông, đồng thời triệt luôn những ai có tư duy đổi mới. Hai ông Lê gọi đó là đám xét lại, theo đuôi Khơ rút sốp (Khrushchev) Liên Xô và Tito Nam Tư để phá chủ nghĩa xã hội. Cụ Huỳnh và ông Hiên con trai cụ đều bị bắt, giam cầm nhiều năm, đến khi được thả ra vẫn mất hết quyền lợi chính trị, oan sai không được tháo cởi, cha thì ôm mối hận nghìn thu xuống mồ, con thì phải lưu vong xứ người suốt từ khi ra khỏi tù tới nay. Thân thiết gần gũi với cụ Hồ như thế, họ cuối cùng vẫn không thoát khỏi lao tù của chính những đồng chí đã một thời đồng cam cộng khổ với mình.

Trong bài viết, ông Vũ Thư Hiên có nhắc đến cụ Nguyễn Hữu Đang. Thế hệ những người đến nay đã ngoài 60 tuổi trở lên không mấy ai không biết tên tuổi cụ Nguyễn Hữu Đang. Cụ là một nhà cách mạng đúng nghĩa, một nhà văn hóa lừng lẫy, một trí thức nhân cách đáng kính. Chính cụ Đang là tổng công trình sư của lễ độc lập – quốc khánh ngày 2.9.1945. Cụ Hồ đã đích thân giao chức trưởng ban tổ chức lễ độc lập cho cụ Đang, chỉ trong 2 ngày cụ Đang đã lo liệu ngon lành, trôi chảy. Điều đó cho thấy tài tổ chức của một con người. Nhưng người tài thường bị ganh ghét, chữ tài liền với chữ tai một vần, nhất là với những người bản lĩnh, cương trực, không chịu xu nịnh, không chấp nhận bán linh hồn cho quỷ. Đám các ông Lê Duẩn – Lê Đức Thọ – Trường Chinh – Tố Hữu vu cho cụ Đang cùng với các ông Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Phan Khôi cầm đầu nhóm Nhân văn-Giai phẩm, là gián điệp, phản động, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Cụ Đang bị kết án 15 năm tù, thuộc diện nặng án nhất trong vụ này. Khi các ông Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn bị vu cho tội xét lại chống đảng, bị bắt giam và đi tù, đày lên trại giam vùng sơn cước heo hút Hà Giang thì ông Đang đã có thâm niên tù nơi đó gần chục năm rồi. Mãi năm 1973 ông Đang mới được thả, rồi bị quản thúc nơi quê nhà Thái Bình gần 20 năm nữa, bị cấm đi khỏi nơi cư trú, ai đến thăm cũng bị theo dõi chặt chẽ. Nhà văn Phùng Quán đã có bài rất xúc động kể về những ngày không tù mà như tù của ông Đang ở Thái Bình, bị hành hạ khổ như con vật, thậm chí con vật cũng không khổ bằng.

Về cụ Đang, tôi chỉ biết rằng, hồi năm 1975 khi chúng tôi học đại học năm áp cuối có được nghe thầy Phan Ngọc (cũng bị quy tham gia nhóm Nhân văn-Giai phẩm) làm ở Phòng tư liệu Khoa văn (cả hai thầy Phan Ngọc và Cao Xuân Hạo đều bị hạ phóng, chỉ được làm ở phòng tư liệu chứ không được dạy, chắc các bạn K17 còn nhớ) kể rằng suốt gần 14 năm lao tù ông Đang bị cách ly hẳn với thế giới bên ngoài. Không hề có một tí thông tin nào lọt vào cánh cổng sắt nhọn và hàng rào dây thép gai của “trại cải tạo” (thực chất là nhà tù) Đồng Văn. Mọi diễn biến của thế giới bên ngoài, dù trong nước hay quốc tế chỉ là con số 0. Người tù không được đọc báo, nghe đài, không được phổ biến tin tức thời sự. Có lẽ đó cũng là cách trừng trị, đày ải của nhà cầm quyền đối với những kẻ bướng bỉnh, bất tuân phục. Sống mà không biết gì ngoài lao động khổ sai giữa vùng núi đá trập trùng, ngoài hai bữa ăn trong ngày, sống thế thì cũng như chết. Thầy Phan Ngọc kể ghê nhất là ông Đang khi được thả ra năm 1973 ông vẫn không hề biết là máy bay Mỹ đã ném bom miền bắc, chiến tranh phá hoại của Mỹ đã diễn ra gần chục năm trời (từ năm 1964-1973). Đọc truyện Tam quốc của Tàu thấy quân Tào trước khi tiêu diệt 70 vạn quân Viên Thiệu trong trận Quan Độ đã bít hết mọi thông tin về các trận trước đó khiến Viên Thiệu không biết đâu mà lần, cứ chủ quan rồi thất bại. Nhưng bưng bít thông tin như trại Hà Giang thì đám Tào Tháo thời Tam quốc cũng phải gọi cộng sản bằng cụ.

Tôi vào Sài Gòn đầu năm 1977. Chỉ gần 2 năm sau ngày 30.4.1975, cuộc sống bị đẩy đến chân tường. Ngày càng có nhiều người trốn ách chế độ mới bỏ nước ra đi, nhà chức trách gọi là “vượt biên”. Lúc ấy người ta bảo nhau nếu cây cột đèn có chân thì nó cũng đi (tôi sẽ có bài ký ức riêng về tình trạng bi kịch này). Mãi tới năm 1983 hoặc 1984 chi đó, tôi mới được nghe kể lại vụ chìm tàu kinh hoàng của người vượt biên ngay khu vực bến phà Cát Lái năm 1979. Những người vượt biên đóng vàng nộp cho công an và chủ tàu, xuống tàu chạy được một đoạn trên sông thì chìm, gần 250 người chết thảm, mấy ngày mới vớt hết xác lên bờ. Phà Cát Lái thuộc địa phận huyện Thủ Đức (chỗ quận 2 bây giờ) nếu theo đường chim bay tới trường tôi cũng chỉ chục cây số. Thế mà dân chúng thành phố, kể cả đám giáo viên chúng tôi, gần như không ai biết một vụ động trời như vậy. Suốt bao nhiêu năm ròng. Họ đã giấu biệt thông tin bi thảm, không để ảnh hưởng đến hình ảnh cuộc sống mới mà họ ca ngợi là tốt đẹp, và nhất là để những ai đang có ý định vượt biên nửa hợp pháp tiếp tục nộp tiền vàng cho họ. Giờ nghĩ lại thấy kinh thật. Hàng trăm người chết xảy ra sát nách mình mà mình không biết.

Sự cấm đoán thông tin cũng dẫn tới tình trạng tin đồn, tin nửa hư nửa thực, nửa kín nửa hở, tin thất thiệt. Không chỉ người dân lương thiện mà ngay cả nhà cai trị nhiều khi cũng vất vả khốn khổ với tin đồn. Khi thì tin đổi tiền, tin máy bay rơi, tin bắt trẻ em mổ lấy nội tạng, tin ông này ông kia bị ung thư bị chết, v.v.. Lưỡi dao mà nhà cai trị đưa ra có lúc lại cứa ngay vào chính tay họ.

Nhà cai trị luôn chủ trương độc quyền thông tin. Có độc quyền thì mới ban phát, định hướng, ép buộc được. Có độc quyền mới tạo ra những vùng cấm để từ đó dễ bề cai trị, trừng trị. Bề ngoài thì có vẻ cởi mở, thông thoáng nhưng thực chất gần 1.000 cơ quan báo chí, truyền thông cũng chỉ nói, viết, phát theo sự múa may của một cây đũa chỉ huy. Sự đi xuống, nghèo nàn, nhạt nhẽo của báo chí chính thống là điều không tránh khỏi. Ngày xưa người dân không có nguồn thông tin nào khác nên phải tìm đến báo chí của công quyền, nay thì họ được sự hỗ trợ của internet nên không bị lệ thuộc nữa. Chính internet và mạng xã hội đã tạo bước đột phá để con người khỏi phải mò mẫm trong thế giới thông tin. Internet là cuộc cách mạng vĩ đại giúp con người ngẩng cao đầu, thoát khỏi sự kìm kẹp, cấm đoán, bưng bít của nhà tù vô hình. Đó là tự do.

Nguyễn Thông

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here