Home Blog Page 1361

Những sai lầm trong bài viết về đảo Tri Tôn của BBC.

0
Nhân Tuấn Trương

 

Để ý thấy lúc này BBC viết bài sai khá nhiều, nhứt là các bài về chuyên môn. Lý do bị VOV định hướng hay thiếu người vậy ?

Bài viết về đảo Tri Tôn, tôi đọc còn nóng hổi vì mới ra lò, là điển hình tiêu biểu.

Vụ tàu khu trục Mỹ đi qua hải phận 12 hải lý của đảo Tri Tôn, các chuyên gia, nhà báo người Mỹ xem đó là thông điệp Mỹ “không công nhận tuyên bố chủ quyền” của tất cả các nước có yêu sách (VN, TQ và Đài loan), hay là “thách thức đường cơ sở” của TQ. Tôi không có ý kiến. Ai muốn hiểu sao hiểu.

Theo tôi, chiếu theo điều 17 luật Quốc tế về Biển, “quyền qua lại không gây hại”, thì tàu khu trục của Mỹ, hay của bất kỳ nước nào, đều có quyền qua lại lãnh hải của đảo Tri Tôn, (hay lãnh hải của bất kỳ quốc gia nào đó).

Chiến dịch “freedom-of-navigation operation” gọi tắt là FONOP của Mỹ là phản ảnh trên thực tế điều 17 của Luật Biển quốc tế.

Vấn đề là luật Biển của TQ buộc các tàu qua lại trong lãnh hải nước họ (tức trong vòng 12 hải lý) thì phải xin phép trước.

Theo tôi, hợp lý thì việc tàu chiến Mỹ đi qua vùng hải phận đảo Tri Tôn là thách thức bộ luật biển của TQ. Đơn giản vì bộ luật này không phù hợp với luật quốc tế.

Điểm sai thứ nhứt của bài viết, trong đoạn dẫn sau đây:

“Năm 1932, Pháp tuyên bố đưa quần đảo Hoàng Sa vào thuộc Liên bang Đông Dương và lập một trạm khí tượng tại đây.”

Sai là vì Pháp sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào Việt Nam chớ không phải vào Liên bang Đông dương.

Thoạt tiên vào tháng 8 năm 1925 Toàn quyền Đông dương tuyên bố quần đảo Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratleys) là những lãnh thổ thuộc Pháp.

Năm 1931, nhân lúc nhà cầm quyền Trung Hoa cho đấu thầu khai thác phân chim (guano) trên các đảo Hoàng Sa, chính phủ Pháp gởi công hàm phản đối đồng thời tuyên bố chủ quyền tại quần đảo này (ngày 4 tháng mười hai năm 1931).

Ngày 13 tháng tư năm 1932 Pháp gởi công hàm minh thị VN có chủ quyền lịch sử tại Hoàng Sa. Pháp tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa với tư cách là nhà nước bảo hộ. Cùng thời kỳ Pháp yêu cầu nhà cầm quyền Trung Hoa giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế nhưng TH từ khước.

Điểm sai thứ hai, trong đoạn dẫn sau đây:

“Sau năm 1954, khi Hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam (tạm thời), con số quốc gia tuyên bố chủ quyền tăng lên gấp đôi.

Sai vì không hề có việc “số quốc gia tăng gấp đôi”.

Theo hiệp định Genève 1954, hai bên nam và bắc VN là “hai miền” thuộc về một quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền bắc trung nam, độc lập và có chủ quyền.

Hai bên Trung hoa, lục địa và Đài Loan, từ khi Tưởng Giới Thạch thua trận Mao Trạch Đông và chạy ra cát cứ Đài loan, năm 1949 đến nay, luôn giữ nguyên tắc “một quốc gia duy nhứt”.

Đài loan và TQ cùng tuyên bố chủ quyền ở HS. Nhưng hai bên có chung nền tảng là Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Hoa.

Điểm sai khác, không thành vấn đề như cũng ghi vô. Là phe Mao không hề “tiếp quản” HS từ tay phe Tưởng, như bài báo đã ghi. Quân Quốc dân đảng (thấy giữ không được) nên rút bỏ.

Điểm sai thứ ba, trầm trọng nhứt, đó là đoạn dẫn sau đây:

“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng nói họ mới là bên có chủ quyền chính đáng từ tất cả những gì người Pháp trao trả lại.”

Hoàn toàn sai.

VNDCCH chưa hề có một tuyên bố bất kỳ nào về chủ quyền HS và TS, ngoại trừ công hàm 1958 do Phạm Văn Đồng ký tên. Nhưng nội dung công hàm này VNDCCH lại nhìn nhận chủ quyền các đảo HS và TS thuộc về TQ.

Còn về ý kiến VNDCCH có “quyền chính đáng”, ở “tất cả những gì người Pháp trao lại”, theo tôi, có lẽ tác giả đã nằm mơ, hay tự “sáng tác” ra thêm.

“Kế thừa” di sản chính đáng, được sự nhìn nhận của quốc tế, từ các thời vua chúa xa xưa, cho đến các chúa nhà Nguyễn, sau đó triều đình nhà Nguyễn, rồi đến nhà nước thuộc địa… là “Quốc gia Việt Nam” của ông Bảo Đại (thành lập theo Hiệp ước Elysée 1948). Sau đó là hai nền đệ nhứt và đệ nhị VNCH.

Nhà nước Pháp đã tuyên bố “caduc – vô hiệu lực” tất cả các kết ước giữa Pháp và VN, sau 1975, vì sự im lặng của VNDCCH (sau khi chiếm được miền Nam).

“Xù” hết, phủi sạch trơn, kế thừa cái gì ?

Kiều Duy Vĩnh phần 5

405

CỔNG TRỜI CẮN TỶ (phần 5,6,7…)

Nhưng mà sống mãi làm sao cho được nỗi với chế độ hà khắc giết người đó. Tu sĩ Lung phải chết. Người ta đóng các cửa sổ lại để không ai nhìn thấy chiếc chiếu gói xác khênh đi qua.

Mỗi lần chôn, có hai tù hình sự ở trại ngoài vào, đem theo một chiếc chiếu, đòn khiêng và dây thừng. Thường hay chôn vào buổi chiều tà. Chôn xong họ được bồi dưỡng một cân đường, hai cân gạo nếp. Cha Quế và Cha Vinh chết, thì đâu như phần chôn còn được thêm một cân lòng trâu.

Thế là với chúng tôi, Tu sĩ Ðỗ Bá Lung xứ Ngọc Ðông Hưng Yên không bao giờ về nữa. Người đã chết, và coi như mọi chuyện đã hết. Nhưng câu chuyện lại chưa chấm dứt ở đây ở lúc đem Tu sĩ Lung đi chôn.

Ở đoạn trên, chúng ta đã biết là Tu sĩ Ðỗ Bá Lung đã vào Hầm Chết ba tháng mà vẫn chưa chết. Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng rất sốt ruột, luôn luôn hỏi anh Nguyễn Hữu Ðang, người cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm, người độc nhất được đưa cơm vào xà lim:

“Thế nào, nó chết chưa? Cái thằng Lung ấy.”

“Thưa ông, anh ấy chưa chết.”

Nguyễn Hữu Ðang có cái đáng quý là anh không gọi ai ở trong tù bằng thằng cả. Trong khi bọn trật tự viên hình sự luôn luôn nói theo giọng quan thầy, ông chủ chúng đều gọi tù nhân bằng thằng này thằng nọ.

Tôi có một anh bạn rất thân tên là Sâm. Khi hỏi cung tôi, cán bộ công an hỏi:

“Anh thấy thằng Sâm nó thế nào?”

“Thưa ông, tôi không quen thằng Sâm nào cả?”

“Anh láo, anh chối hả? Thằng Sâm mà anh không quen thì anh còn quen ai nữa?”

“Thưa ông, nếu ông nói về anh Ðỗ Văn Sâm học cùng với tôi ở trường Chu Văn An thì tôi quen rất thân. Nhưng xin ông nhớ cho là anh ấy chưa bị bắt, ông không nên gọi thằng này thằng nọ như thế.”

Tôi chỉ dám trả lời lại có thế thôi, nhưng còn anh bạn Phan Hữu Văn, thì anh ấy trả lời hay hơn tôi nhiều:

“Thưa ông, tôi tưởng ông nói tới thằng Vĩnh lưu manh, ma cà bông ở cùng trại 13 với tôi thì thật tình tôi không bao giờ biết tới quân ăn cắp ấy cả. Nhưng tôi có quen ông Kiều Duy Vĩnh, học sinh trường Chu Văn An cũ, nguyên đại úy tiểu khu trưởng Ninh Giang. Chúng tôi không dùng những từ thằng này thằng nọ mày tao mi tớ bao giờ. Chỉ có bọn vô học, vô văn hóa, vô giáo dục thì mới dùng những từ đó mà thôi.”

Tên công an tím mặt lại, đuổi về trại đi cùm.

Lại nói về Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, hết tháng thứ ba ông chưa chết, nhưng sang đến tháng thứ tư vào dịp gần đến lễ Thiên Chúa Giáng Sinh ở Cổng Trời đôi lúc không độ, nước đóng băng thì tu sĩ Lung chết.

Nguyễn Hữu Ðang vội vã bá cáo với trực trại là Tu sĩ Lung đã chết.

Ngay buổi chiều hôm đó, mọi cửa sổ nhà giam đều bị đóng kín lại, có hai người tù hình sự ở trại ngoài đem đòn, dây thừng và một chiếc chiếu vào khênh đi chôn. Họ chôn xong, về lĩnh mỗi người một cân đường và một cân gạo nếp. Ðâu như những lần chôn cất cha Vinh cha Quế họ được thêm mỗi người một ký lòng trâu.

Ðối với chúng tôi thì là Tu sĩ Ðỗ Bá Lung đã chết, đã đem chôn. Người chết hết chuyện. Thế nhưng trường hợp của Tu sĩ Lung lại không hết chuyện. Thế mới phiền.

Cũng chừng độ ba tháng sau, một ngày nắng vàng rực rỡ, trời ấm áp dễ chịu, người ta thấy, lù lù một tu sĩ Ðỗ Bá Lung chống gậy xuất hiện ở trại Cổng Trời.

Thế là náo loạn cả lên. Từ Ban Giám thị trại, đến lính coi tù, đến tù nhân đều tới lui, bàn ra tán vào, rì rầm nhớn nhác. Cửa sổ các trại lại đóng như khi ông chết mang đi chôn. Họ đưa ông vào ở tạm một cái buồng con chỗ cán bộ giáo dục “lục vấn” người tù. Chứ chả lẽ lại đưa ông vào Hầm Chết lần nữa!

Hóa ra là hồi ba tháng trước ông chưa chết hẳn, hoặc là ông đã chết mà một phép lạ đã làm ông sống lại. Câu chuyện xảy ra như sau:

Sắp đến chỗ chôn thì trời đổ mưa to, hai người tù hình sự tránh mưa, để ông nằm đó chạy vào trú mưa ở nhà một người Mèo, họ vào đấy uống rượu chờ tạnh mưa. Mưa hồi lâu, và rượu hơi ngon nên trời chập choạng tối họ mới lần xuống, thì không thấy bó chiếu đâu nữa.

Họ nghĩ có lẽ thú dữ, hoặc chó sói đã tha cái xác ấy đi rồi. Có sao đâu, khỏi phải chôn. Họ về và cũng chả có ai hỏi là họ chôn xong chưa? Mọi lần vẫn thế. Mặc nhiên coi như đã chôn xong.

Hóa ra là khi họ đang uống rượu thì mưa to hơn lại có sấm chớp nữa làm Tu sĩ Ðỗ Bá Lung tỉnh lại, dây buộc thì lỏng lẻo, ông chui ra khỏi cái chiếu, lấy cái chiếu che mưa lần vào cái chuồng trâu gần đó. Hơi ấm của trâu, của phân trâu làm ông hồi tỉnh lại và sáng hôm sau, chủ nhà người Mèo nấu cháo ngô cho ông ăn và nuôi ông. Thế là ông sống lại.

Ông sống lại một cách khỏe mạnh. Người Mèo cho ông ăn no so với sáu ký gạo cộng với sắn trong một tháng thì cháo ngô đã làm ông hồi phục nhanh chóng.

Nhưng làm sao mà sống mãi ở nhà họ được? Mà trốn trại thì trốn về đâu? Và làm sao mà trốn thoát được. Giấy tờ không, tiền không, với 100km đường rừng, 300km đường bộ, ông đi làm sao được. Chỉ có một con đường độc nhất xuống núi thì bị kiểm soát thật ngặt nghèo, ông làm sao đi thoát. Vậy chi bằng quay trở lại trại Cổng Trời là hơn cả.

Thế là ông quay về trại sáng hôm đó.

Nhưng phiền là ban giám thị trại đã báo cáo về bộ cái thành tích tiêu diệt tên phản động đội lốt thầy tu Ðỗ Bá Lung rồi, và trên bộ đã gạch xóa tên Lung trong danh sách tù ở Cổng Trời rồi. Làm sao bây giờ? Phải có phương án nào chứ.

Hai hôm sau, có một xe com-măng-ca của bộ lên trại Cổng Trời. Ông Ðỗ Bá Lung lên chiếc xe đó. Ông đi đâu? Và sẽ ra sao? Cho đến giờ chúng tôi cũng không biết gì hơn về Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, người đã chết và đã sống lại đó.

Phần 6

1. Cuộc tuyệt thực

Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ.

Thứ nhất là các đấng bậc trong giáo hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim), rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.

Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.

Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người Công Giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ, còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng, Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyện Công “Cửa” tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc, Nam Lộc, Nam Ðàn…

Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.

Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.

Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Ðang.

Khi ở khu A còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại.

Tôi được chuyển sang khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật người Nam Hà.

Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, được đi lao động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư một lần và được phép nhận thư.

Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi lên với địa chỉ:

Công trường 75A Hà Nội C65 HE.

Mọi người đều ngạc nhiên, cả tôi nữa.

Lúc đó nhà tôi ở số nhà 7 phố Thi Sách gần ngay đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội.

Tính từ khi lên Cổng Trời, đã được hơn 3 năm có lẽ tôi chưa được viết thư về nhà lần nào, thế mà tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết thơ cho tôi và mẹ tôi có biết là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang không?

Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất (1970) tôi về gặp lại mẹ tôi, tôi mới rõ. Thì ra sau khi tôi được chuyển lên Cổng Trời ố 1960 – thế là mất hết tin tức về tôi. Tất nhiên là mẹ tôi không chịu để mất. Mẹ tôi lên trại cũ ở Bất Bạt Sơn Tây để hỏi. Chánh giám thị trại là thiếu tá Thanh trả lời là ông ta không rõ!

Quay về Hà Nội mẹ tôi đến Bộ Công An ở phố Trần Bình Trọng hỏi. Họ không cho vào gặp. Nhưng từ nhà tôi ở chợ hôm ra đến hồ Thiền Quang chưa đến 1km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi dắt cháu đi chơi là mẹ tôi lại tạt vào quấy rầy họ. Ðến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.

Mẹ tôi cứ đi. Kiên trì dắt cháu đi hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ đành phải trả lời. Nhưng cũng mất 1 quãng thời gian là hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ đó: Công Trường 75A Hà Nội.

Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này. Họ bảo họ cũng không biết

Mẹ tôi đời nào chịu.

Và cuối cùng họ đành phải trả lời là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang.

Thế là mẹ tôi đi Hà Giang.

Ði với 2 bàn tay trắng: Không có mảnh giấy đi tiếp tế cho tù.

Quy định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố thì bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu mẹ tôi vẫn cứ đi.

Nhưng lên được đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì bị công an theo dõi và bắt quay về Hà Nội.

Mẹ tôi đành viết thơ cho tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư.

Thế ra mẹ tôi vẫn còn sống và tôi, tôi vẫn còn sống.

Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy họ, mà trên Bộ Công An chưa bật đèn xanh cho ban giám thị trại xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời này.

Ðã có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về báo tin là tôi đã chết. Nhưng mẹ tôi khăng khăng không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu sống tôi.

Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như cha Vinh, cha Quế, tu sĩ Ðỗ Bá Lang, tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng bậc ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc thánh đó thấy rằng tôi là một phần tử tiến bộ trong số này.

Này nhé: Tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay trước lễ Phục Sinh. Không cần nghi lễ Giáng Sinh, thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám Thị rồi còn gì nữa.

Còn với các đấng bậc kia.

Cấm cầu kinh, cứ cầu

Cấm làm dấu thánh trước khi ăn. Cứ làm. Ngày lễ Giáng Sinh cứ nghỉ không chịu đi làm.

Và nhất là chuyện tôi cứ ăn không chịu tuyệt thực cùng các vị đó khi có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.

Câu chuyện tuyệt thực xảy ra như sau: “…Ðây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt.” Tịch thu thì được. Còn cấm thì hơi khó hơn, nếu không nói là không cấm được.

Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh?

Phần 7

Ăn xong, rồi ngồi chơi nhìn nhau. Im lặng không nói chuyện, không đi lại, thế là cầu kinh đấy.

Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ lại cấm ngồi bắt nằm mãi sao.

Ban Giam Thị uất lắm!

Sau chuyện tu sĩ Ðỗ Bá Lang, chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.

Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này thì Nguyễn Quang Sáng phải chịu thua.

“Ai cho các anh ăn?”

“Chúng tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả.”

“Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh ăn. Ðúng lắm, nhưng đó là chúng tôi đây chứ không có chúa nào hết. Không có con mẹ Maria, thằng Jê su nào cả. Biết chưa?”

(Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì).

Và đến bữa ăn. Quản giáo đứng đó. Mọi lần thì cửa mở, chúng tôi bê cơm vào trong phòng. Ðóng cửa lại. Chúng tôi chia nhỏ từng xuất một và ăn. Không có sự hiện diện của ai cả.

Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.

Tất cả, cả tôi, không ai phải bảo ai, không chia cơm ra ăn. Ðứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa lại đi về.

Ðến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh đều chia vào hai cái thùng gỗ to, chứ không chia thành một phần như ở xà lim.

Buổi chiều, đích thân chánh giám thị xuống, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng. Mặt tái vì giận dữ. Nhưng làm thế nào mà bắt họ ăn cho được?

Không có khí thế hừng hực đấu tranh như những người Cộng Sản ở Sơn La, Côn Ðảo tuyệt thực, không có hô khẩu hiệu, tất cả đều lặng lẽ ngồi im.

Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.

Họ không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu sách điều gì.

Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn vào mặt ông ta cả. Tất cả đều quay mặt đi chỗ khác.

Giám thị Sáng đành phải ra về.

Ðêm đến: Tôi đói không thể nào ngủ được. Ðã một ngày trôi qua, và hai bữa không ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.

Chỉ có khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi lặng lẽ khai ốm và báo cháo, vì tôi nghĩ: Ðói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.

Dạ dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn và nghiền nát tất cả mọi thứ mà đối với người khác bình thường, cùng tù với tôi cũng không kham nổi.

Sắn sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn được, khoai hà chỉ có ngỗng mới ăn, tôi cũng ăn được khoai sọ tôi ăn cả vỏ, dong riềng ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết.

Ra suối tắm, quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết.

Chỉ gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi.

Sắn ăn say, ngày nào mà tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi chính có lẽ do say sắn triền miên mà tôi vẫn còn sống đến hôm nay.

Chả là rét quá, tôi bị sưng phổi. Cứ thấy ho, sốt, rồi tôi không dám nói láo cứ cúi xuống ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách…

Ở Cổng Trời không phải khai ốm, vì có còn khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết.

Quản giáo trực thấy tôi nằm ốm, hỏi làm sao. Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Ðể đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi khỏi. Mọi người: đều coi chuyện đó là chuyện thường tình.

Mãi đến khi về, năm 1970 tôi đi khám ở bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi là tôi bị sưng phổi bao giờ và ở đâu hút cho.

Tôi trả lời là quên mất thời gian và chưa ai hút ra bao giờ. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.

Qua chuyện trên, tôi đi đến kết luận là Acide Cyavidrique nghĩ thế, theo đầu óc ngu dốt của tôi thôi.

Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh khu. Cấm liên lạc nhưng khi trả thùng cơm canh, thì đem đến một cái sân chung để nhà bếp tiện lên lấy. Có lần khu C: họ được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Chả hiểu sao cả khu say, và chết đâu mất năm người.

Sáng ra, quản giáo trực vào thấy chết vì say sắn bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn lại, cấm không cho ăn, và đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm.

Hôm ấy đến lượt tôi bưng thùng ra trả. Tôi thủ ngay gối một thùng sắn luộc rồi giấu vào bụng đem về buồng ăn.

Cái vị tu sĩ bảo tôi: Họ ăn chết hàng loạt kia kìa, lấy về làm gì?

Tôi bảo: Họ có nhiều họ ăn mới chết! Chứ mình cứ củ một ăn, chết thế nào được. Và tôi ăn. Ăn củ một, thấy đắng quá thì thôi. Hơi say một chút chẳng sao cả. Và những chất say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và có thêm một hiện tượng là hai bên quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ hơn.

Ðiều này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy!

12 kg cả gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76 nặng 78kg và ba mươi tuổi thì các vị chắc cũng hiểu cho được.

Còn tiếp …

Cổng Trời Cắn Tỷ (Kỳ 4)

0
Kiều Duy Vĩnh 

LTS – Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7/7/2012 vừa qua, thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hơn chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục công giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo.”

 

Kỳ 4

 

Buổi sáng hôm ấy, chín giờ, mọi người chúng tôi ăn cơm xong, ngồi chơi, nhìn nhau, thì cửa mở. Một tiểu đội lính lưỡi lê tuốt trần súng ống chỉnh tề. Ðủ mặt bá quan của Khu A2. Quản giáo trực, giáo dục, phó giám thị phụ trách khu.

Tất cả đều đội mũ bình thiên, lệ phục chỉnh chu. Cuối cùng, giám thị mới xuất hiện. Còn trẻ, nhanh nhẹn mặt mũi sáng sủa, ăn nói lưu loát, sang sảng, dứt khoát, có âm sắc Nam Hà (có điều cho mãi đến tận bây giờ tôi vẫn chưa hiểu nỗi, là tại sao trong chuỗi ngôn từ chính quy, nhân danh pháp luật mà giám thị mới lại xen vào đó một số từ mà người ta chỉ dùng để nói láo với nhau mà thôi).

Bài nói như sau:

“Hôm nay, tôi Nguyễn Quang Sáng. Chánh giám thị mới của trại, thông báo để các anh rõ.

Trại Cổng Trời, Công Trường 25A Hà Nội này là một trại đặc biệt. Trại đã sàng lọc cẩn thận lũ các anh, bọn đầu trâu trán khỉ, bọn phản động chống phá cách mạng một cách điên cuồng, ở các trại dưới các anh không chịu cải tạo, lại còn ra sức truyền đạo và kích động người khác. Chúng tôi đây, chúng tôi cũng được chọn lọc, những phần tử ưu tú nhất, dầy dạn nhất, kinh nghiệm nhất để lên đây trừng trị, trấn áp lũ các anh. Tôi thay mặt cho ban giám thị báo cho các anh biết:

Ban giám thị trại Cổng Trời trực tiếp được Bộ Chính Trị và Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội trao cho quyền hành đặc biệt: Trừng trị thẳng tay những kẻ nào còn dám chống lại đảng và nhà nước. Cụ thể, tôi nhấn mạnh, là tôi sẽ cho đi ngủ với giun (nguyên văn) những kẻ nào không chịu cải tạo và cố tình chống đối lại.

Hôm nay tôi xuống đây để hỏi: Anh Ðỗ Bá Lung.”

Im lặng.

“Tôi hỏi: anh Ðỗ Bá Lung có nghe thấy không?”

Có tiếng đáp nhỏ nhẹ: “Có tôi.”

“Ðứng dậy. Tôi bảo anh đứng dậy.”

Vì buồng giam chật, không có chỗ cho chúng tôi đứng, nên chúng tôi đều ngồi xổm hoặc xếp chân vòng tròn trên giường chỗ gần cửa ra vào. Chỉ có giám thị, quản giáo là có chỗ đứng ngay cửa mà thôi. Tu sĩ Ðỗ Bá Lung từ từ đứng dậy.

Trời rét âm bốn độ, nên trong lúc ngồi nghe chúng tôi ai nấy đều quàng chăn cho khỏi rét.

“Bỏ chăn ra.”

Tu sĩ Lung tuột chăn khỏi vai cho rơi xuống chân mình.

“Anh Ðỗ Bá Lung, hôm nay, sau khi đọc hồ sơ của anh, cùng các nhận xét của các ban giám thị các trại dưới, và được các ông quản giáo báo cáo lại, thấy rằng: Anh là một tên phản cách mạng cực kỳ nguy hiểm, đã đội lốt thầy tu mê hoặc các giáo dân ở các xứ đạo, kích động họ để họ chống lại đảng và chính phủ.

Ðến khi bị bắt vào tù, ở các trại dưới cũng như ở đây, anh vô cùng ngoan cố khăng khăng không chịu cải tạo, từ chối mọi sự giáo dục của ban giám thị và các ông quản giáo. Tôi nói lại một lần nữa cho anh Ðỗ Bá Lung và các anh nghe cho rõ. Kẻ nào còn dám chống lại tôi sẽ cho đi ngủ với giun.

Anh Lung, trước đây lúc nào anh cũng vỗ ngực tuyên bố trước giáo dân và các ban giám thị ở các trại dưới là anh thề không đội trời chung với Cộng sản. [Chính xác thì Tu sĩ Lung nói: Tôi không bao giờ có thể sống chung với Cộng Sản vô thần được]. Bây giờ trước mặt tôi anh có còn dám trắng trợn thách thức như thế nữa không?”

Im lặng trên toàn bộ nhà mồ. Tôi ngồi im một xó, khép kín cái chăn, sụp cái mũ bịt tai lại, tránh mọi cặp mắt.

Giám thị Sáng cao giọng hất hàm:

“Tôi hỏi anh Lung, anh trả lời cho tôi biết. Thế nào?”

Những phút giây này Thần Chết đã có mặt. Người ta thường viết như thế này về những người Cộng Sản trước khi chết: Vào những phút giây này người Cộng Sản kiên cường bao giờ cũng đứng dậy hô to: “Ðảng Cộng Sản muôn năm. Hồ Chủ Tịch muôn năm.” Phút giây thiêng anh đứng dậy ba lần và hô ba lần hô dõng dạc như thế.

Tôi chờ. Tôi chờ. Và thấy tu sĩ Ðỗ Bá Lung ngẩng đầu:

“Tôi có nói như thế và bây giờ tôi vẫn nói như thế.”

Tiếng quát bật ra giận dữ:

“Lôi nó đi.”

Không để ai phải lôi kéo cả.

Tu sĩ Lung từ từ bước ra khỏi giường. Ði ra cửa.

Hàng lưỡi lê giãn ra. Quản giáo, giám thị giãn ra để cho tu sĩ đi. Ðến gần cửa tu sĩ quay lại, móc túi lấy gói thuốc lào, mấy đồng bạc “âm phủ” trao lại cho người ngồi gần. Vì tôi nằm cạnh tu sĩ, nên tu sĩ quay lại phía tôi: “Anh Vĩnh, tôi còn mấy viên thuốc cảm, và cái gối để ở đầu giường, lấy mà dùng.”

Và hướng vào tất cả mọi người trong nhà mồ, tu sĩ nói nhỏ nhẹ:

“Thôi chào các bác, các anh ở lại. Tôi đi.”

Và tu sĩ đi. Cửa sập lại.

Chúng tôi im lặng ngồi nhìn nhau không ai nói với ai một lời. Thần Chết đến và đã đi. Lần này ầm ĩ hơn, có nghi lệ hơn, có bài bản hơn những lần trước.

*

Gần ba tháng sau, Nguyễn Hữu Ðang, “tên cầm đầu bọn Nhân Văn Giai Phẩm” đến gần cửa sổ khu tôi ở. Anh là người độc nhất ở đây được đưa cơm vào xà lim, được đi lại tự do trong bốn bức tường, anh là người được ăn no, đủ muối mắm, thậm chí được mua cả thịt trâu và được hái hoa rừng cài vào cửa sổ. Có lần anh cầm một bó hoa nghệ và bảo tôi: Này Vĩnh, cậu ngửi mà xem có đúng mùi nước hoa Bain de Champagne không.

Tôi vốn không ưa cái mùi ung ủng của thứ nước hoa thượng hảo hạng đó. Nhưng anh Nguyễn Hữu Ðang thì anh rất thích cái mùi nước hoa Bain de Champagne đó. Lại có lần qua cửa sổ vào buổi sáng sớm, anh dúi cho tôi một cái bánh sắn to có nhân thịt trâu.

Chao ôi là chao ôi.

Thỉnh thoảng lúc vắng quản giáo và lính canh anh đứng cạnh cửa sổ nói với tôi dăm ba câu chuyện tào lao. Anh được thả lỏng, được ưu đãi có lẽ do cái người cắp cái cặp đen hôm đưa đoàn tù lên. Anh bảo với tôi rằng ông ta tên là Vệ, hình như làm cục phó Cục Quản Lý trại giam. Hồi xưa trước năm 1945, khi anh làm tổng thư ký Hội Truyền Bá Quốc Ngữ với cụ Nguyễn Văn Tố, anh có làm ơn cho ông ta một điều gì đó. Ðến giờ ông ta tử tế đáp lệ lại. Chắc là thế.

Anh luôn bảo, anh không có tội gì cả. Nếu có – theo anh – thì đó chỉ là một sự hiểu lầm về thời gian và không gian trong triết học mà thôi. Anh nói ấm ớ lững lờ và khó hiểu như vậy.

Ba tháng sau, lúc đưa cơm xà lim xong anh đáo qua cửa sổ tôi và bảo:

“Này, cái lão Lung ấy mà. Vẫn chưa chết. Sống dai thế. Không có chăn, không có quần áo ấm để chống rét cơ thể mọc đầy lông cậu ạ. Chỉ còn đôi mắt là vẫn sáng vẫn sống thôi.”

CỔNG TRỜI CẮN TỶ (phần 1)

0

LTS: Ông Kiều Duy Vĩnh là một trong những chứng nhân của sự độc ác cùng cực của cai tù CSVN tại nhà tù “Cổng Trời” tỉnh Hà Giang. Ông mất ở Việt Nam ngày 7 tháng 7, 2012 thọ 81 tuổi. Ông từng tốt nghiệp Võ Bị cùng khóa với ông Nguyễn Cao Kỳ, là đại úy tiểu đoàn trưởng Nhảy Dù. Năm 1954 ông đã không theo đơn vị di cư vào Nam vì lý do gia đình. Ông đã bị bỏ tù hai lần 17 năm trong đó có nhiều năm ông bị giam ở “Cổng Trời,” nơi ông và một người nữa (ông Nguyễn Hữu Ðang trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm) sống sót trong số 72 người tù ở cùng một phân trại. Ông kể lại những ngày tù ở “Cổng Trời” qua các hồi ký từng phổ biến trên tạp chí Thế Kỷ 21 cách đây hai chục năm. Trong các hồi ký này, ông kể về sự kiên cường giữ vững niềm tin tôn giáo của các giáo dân, tu sĩ và linh mục Công Giáo mà ông gọi là “các Thánh Tử Ðạo”.

KIỀU DUY VĨNH (Kỳ 1)

Tôi sở dĩ sống đến hôm nay là vì tôi không phải là người Thiên Chúa Giáo. Nếu tôi mà đeo Thánh Giá ở ngực và biết câu Kinh thì tôi phải chết đã lâu rồi, từ những năm 60 của thế kỷ này, khi còn đi tù đày ở Cổng Trời kia.

Ngày ấy tuy qua mà như còn đấy…

Chúng tôi được tập trung ở Hỏa Lò Hà Nội từ khắp mọi miền đất Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở ra: Vĩnh Linh, Quảng Bình, Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Mỏ Chén, Bất Bạt, Sơn La, Yên Bái, Lao Cai.

Tay xích còng số 8, hai người một.

Hàng đầu: Cha Vinh (địa phận Hà Nội) người bị kết án có 18 tháng tù thôi thế mà hóa ra án tử hình. Cha Quế, địa phận Xã Ðoài, Nghệ An. Thứ đến là Nguyễn Hữu Ðang, người cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm. Tu sĩ Ðỗ Bá Lung, tu sĩ xứ Ngọc Ðồng Hưng Yên (nay là Hải Hưng), khét tiếng chống Cộng Sản (1). Tiếp sau đó là một lũ tù dây, đầu trần trán khỉ, hôi hám rách rưới, chống bướng, cứng đầu cứng cổ không chịu sự cải tạo của đảng và chính phủ, bọn “dám bẻ que chống trời…

Chúng tôi lên xe đi. Súng ống bao quanh. Ði đâu?

Không ai ai biết cả. Cả những người cầm súng, cũng không biết. Có lẽ chỉ có một người biết. Người đó xách cặp đen đựng danh sách tù nhân, mặt mũi tử tế, ăn mặc dân sự chỉnh tề, đi trên chiếc commăng ca dẫn đường.

Chỉ biết là chúng tôi đi lên hướng Bắc. Ngày đó đường sá đầy ổ gà ổ voi, xe đi chậm. Mãi trưa chúng tôi mới tới Vĩnh Yên. Nghỉ lại ăn cơm trưa.

Tôi ngồi gần Nguyễn Hữu Ðang, thấy người xách cặp đen đi qua để “kiểm tù” nói năng lễ độ tử tế, nhẹ nhàng.

“Anh Ðang, anh có khỏe không?”

“Vâng, tôi khỏe”.

Hai người nhìn nhau thông cảm:

“Anh có yêu cầu điều gì không?”

“Không. Cám ơn.”

Người đó lặng lẽ đi tiếp.

Chúng tôi lại tiếp tục đi lên phía Bắc. Ðến Ðoan Hùng. Lúc đó chưa có cầu. Chúng tôi phải xuống xe chờ phà. Ðể tránh sự chú ý: Họ lùa chúng tôi vào sâu trong ngõ cạnh đường, ở đó có một trường học. Có lẽ cấp hai. Các em học sinh và các thầy cô giáo tò mò ra xem lũ tù đày. Họ chỉ trỏ xì xào, hỏi han.

Nguyễn Hữu Ðang hỏi:

“Các cháu có biết nhân vật lịch sử Cao Bá Quát không?”

Qua phà chúng tôi đến Tuyên Quang ngủ lại trại giam Tuyên Quang. Lệnh: Không được cởi xích tay. Qua một đêm không thể nào mà ngủ được. Thằng muốn đi ỉa đi đái, phải đánh thức thằng tù đang ngủ dậy.

5 giờ dậy đi tiếp.

Kiểm số tù lần cuối vẫn là ông xách cái cặp đen tử tế. Ông ta tỏ vẻ rất biệt đãi đối với anh Ðang, làm tôi nghĩ đến chuyện “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân trong “Vang Bóng Một Thời”.

Ðến Hà Giang, sau khi ăn cơm trưa, chúng tôi đi tiếp vào một con đường mới mở, hẹp và cheo leo. Mọi người nhìn nhau:

“Ði mô?”

Mấy ông Nghệ Tĩnh hỏi nhau.

“Có lẽ sang Tàu.”

Anh Ðang bảo: “Lên Cổng Trời Cắn Tỷ.”

Xe đi chậm vì đường quá xấu. Thế rồi cũng qua được hết, qua đèo Quyết Tiến như là đi máy bay, qua rừng, qua suối, qua mây, và rồi màn đêm buông xuống, chúng tôi đi trong đêm. Tôi vốn là một sĩ quan rất giỏi về Topo, cố định hướng xem mình đi về đâu, hướng nào và đã đi bao xa, nhưng lúc đó cũng chịu. Ðộ 2 giờ sáng đến một địa điểm đèn đuốc sáng choang.

Lệnh xuống xe.

Chúng tôi bị lùa vào một khu rừng, và vào một cái nhà có tường dầy 0.80 mét bằng đất nện, cửa lim, trong nền nhà mọc đầy cây nghệ, lá xách om mượt mà. Cửa khóa lại. Không có đèn đóm gì. Tay hai người vẫn bị xích lại với nhau. Mỗi nhà nhận độ 20 người. Sờ soạng sắp xếp và ngủ tiếp.

Sáng hôm sau, cửa mở, đem toàn bộ đồ dùng ra sân. Khám xét. Lục lọi. Tất cả cái gì bằng kim loại, thánh giá, tràng hạt, kể cả cái thìa nhôm cũng bị tịch thu lấy đi.

Xong, đọc tên phân loại.

Khu O. Khu H. Khu A. Khu B. Khu C. Khi đi và lúc đọc tên tôi nhẩm: có 72 người. Phần lớn là già, đứng tuổi và 99 phần trăm là Thiên Chúa Giáo.

Cha Vinh, cha Quế được gọi đi trước, đi về khu O. Nguyễn Hữu Ðang vào khu C. Tôi và tu sĩ Ðỗ Bá Lung vào khu A. Khu A có hai nhà. Nhà tôi ở có: – Ðinh Hiền Lương, tu sĩ dòng tu ép xác Châu Sơn, Ninh Bình, Ðức cha Lê Hữu Từ trước khi làm Giám mục Phát Diệm đã tu ở đó. – Nguyễn Trung Chính, tức Nhẩm, tu sĩ xứ Trung Ðồng, Thái Bình. Nguyễn Văn Khánh Sơn, giáo dân đeo kính cận người Nghệ Tĩnh. – Cố Hoàng: giáo dân Ðức Thọ, Hà Tĩnh, có hai người sinh đôi là Song, Toàn để phân biệt với – Tu sĩ Hoàng cũng Nghệ An. – Lưu Nam phụ trách thanh niên Công Giáo địa phận Xã Ðoài. – Tu sĩ Bình, địa phận Thái Bình. – Tu sĩ Ðỗ Bá Lung xứ Ngọc Ðồng, Hưng Yên. – Trần Văn Liệu, giáo dân làm nghề đồ tể ở Cầu Giát, Quỳnh Lưu, v.v.

Nhà rất rộng, có 2 sạp nằm đối đầu nhau. Chúng tôi là tù chính trị nên đều hết sức tử tế nhường nhịn nhau, ai nằm đâu thì nằm không hề tranh giành cãi cọ.

Xếp đồ đạc xong, đã đến giờ làm việc thiêng liêng, ai nấy đều cầu kinh và làm dấu thánh giá.

Riêng tôi, có mỗi một mình tôi, không biết cầu, không thuộc kinh bổn gì ráo trọi nên tôi bèn nghĩ tới cái trò Yoga mà tôi đã đọc ở đâu đó. Những năm của thập kỷ 60 người ta ít biết và ít nói về cái trò đó. Tôi ngồi thở và sau đó Trần Văn Liệu hỏi tôi “Ðược mấy cân hơi rồi.”

Ngày đầu tiên ở Cổng Trời Cắn Tỷ chấm hết ở đó.

Sang ngày thứ hai, mọi người dậy sớm. Cứ ngồi mà nhìn nhau. Không có nước để đánh răng rửa mặt. Tám giờ, chín giờ rồi mười giờ. Vẫn im ắng như không. Các đấng bậc tu sĩ lại cầu kinh. Tôi lại luyện yoga.

Hai cái thùng đựng phân và nước tiểu bằng gỗ đều đầy cả. Nước đái tràn cả ra ngoài.

Mãi đến 11 giờ, có tiếng gọi: “Lấy cơm.”

Có hai tên tù hình sự ở trại ngoài khênh cơm đến để ở cửa rồi chạy biến. Cấm được nhìn, được hỏi, được tiếp xúc trao đổi cái gì. Bọn kiên giam, biệt giam là cực kỳ nguy hiểm, chúng giết người không gớm tay, bọn ăn gan uống máu đồng bào.

Nhưng thật sự, nhìn kỹ thì: – Ðinh Hiền Lương dòng tu ép xác Châu Sơn xanh lướt như một cái bóng. Các tu sĩ đều vậy cả. – Cố Hoàng thì chỉ có hát là cao giọng thôi, chứ đi đứng thì lẩy bẩy. – Khánh Sơn thì mù dở. Nếu ăn gan uống máu đồng bào được thì may ra có tôi và Trần Văn Liệu. Nhưng sau những năm tháng tù đầy ở dưới đồng bằng, bị đói, bị khát bị quần cho đến tơi người bản thân tôi, nắm tay không chặt thì còn làm gì được nữa. Ðã rất nhiều lần tôi thử sức, nắm thật chặt để nắm tay mình trở thành quả đấm, nhưng không bao giờ thành, bàn tay tôi không bao giờ có thể nắm chặt lại để thành nắm đấm cả. Thực trạng là như vậy đấy. Nhưng chắc là có lệnh nghiêm mật, giám thị, quản giáo và lính coi tù họ đối xử với chúng tôi cực kỳ tàn bạo và hà khắc.

Ðiều cuối cùng họ phải thi hành nghiêm chỉnh là làm cách nào giết hết được chúng tôi. Và họ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó: 72 người còn lại độ chừng 11 người. Tôi dám nói con số đó chính xác đến 99%.

Năm đó là năm 1961. Chúng giết anh em ta ở khu O, khu H, và khu A. Những lò thiêu xác (khổng lồ hay nhỏ nhoi?) không có khói và không cần chất đốt.

Chúng giết anh em ta

Bằng chiều cao của núi

Bằng chiều sâu của đất

Bằng thông cáo của nha khí tượng.

Cứ âm O độ là gọi đi xà lim. Xà lim là một cái quan tài bằng đất dầy một mét, cùm răng cá sấu cắn chân không bao giờ được mở, và bỏ đói cho đến chết. Tiếng gọi của thần chết đột ngột, bất thần, không lý do và khỏi cần giải thích. Lưu Nam, chuẩn bị đi. Khánh Sơn chuẩn bị đi. Ðinh Hiền Lương, chuẩn bị đi. Cứ thế lần lượt ra đi và không ai trở lại.

Những năm tháng ấy, tôi ngửi thấy cái chết gần gũi quá. Lần đầu tiên trong đời, qua những năm chinh chiến, qua những cuộc hành quân chiến dịch, tôi đi trong cảnh máu chảy đầu rơi, chân tay vung vãi, khói lửa mù trời, tiếng đại bác bắn dồn dập, mặt đất rung chuyển, máy bay rít sát trên đầu, tiếng xích sắt của xe tăng nghiến sàn sạt sát sườn, cả khi người vệ sĩ của tôi chạy cạnh tôi trong chiến đấu, bị nguyên một băng tiểu liên quét trúng, ngã trong cánh tay tôi, người đầy máu thều thào: “Em chết, trung úy ạ…” cả những lúc ấy tôi vẫn chưa cảm thấy mùi Thần Chết.

Nhưng ở đây, Cổng Trời Cắn Tỷ, những năm 60, tôi ngửi thấy và cảm thấy nó rất gần. Lặng lẽ, lặng lẽ nó tiến đến. Không thể nào cản nổi. Một cặp lỗ hổng vô cảm của đôi mắt, một tiếng gọi tên, vài cái lưỡi lê chĩa vào… Thế là ra đi, thế là chết.

Một người ra khỏi cửa, những người còn lại nhìn nhau chờ đợi. Không ai nói với ai điều gì. Chúng tôi ăn cơm hai bữa một ngày, chín giờ sáng và ba giờ chiều. Ăn xong ngồi nhìn nhau. Chờ.

Các đấng bậc tu sĩ rất ít nói, nhất là Ðinh Hiền Lương, dòng tu ép xác Châu Sơn. Trông Ðinh Hiền Lương tôi nhớ đến Ðức Giám Mục Lê Hữu Từ địa phận Phát Diệm: Khô, gầy, mặt đầy nếp nhăn khắc khổ. Tuy còn trẻ hơn nhưng tu sĩ Lương cũng gần giống vậy, chỉ có nước da trắng xanh hơn vì ở xà lim suốt. Tuy ông mặc áo tù, nhưng trước mắt tôi vẫn cứ hiện lên hình ảnh của Giám Mục Lê Hữu Từ, người ngồi đó lặng lẽ ôn tồn nhẹ nhàng để đi đến cái chết.

Ở với ông lâu, nhưng tôi chưa được nghe một câu chuyện nào do ông kể, vì ông chỉ nói mỗi ngày có vài tiếng thật cần thiết để tồn tại. Còn thì im lặng suốt. Cái im ắng của ông, tỏa ra chung quanh, đè xuống mọi người.

Còn tiếp

Phong trào dân chủ Hồng-Kông tuyên bố « tiếp tục tranh đấu »

0
RFI
media

Từ Hồng Kông đặc phái viên RFI, Heike Schmidt, tường thuật:

« Đấu tranh cho Hồng Kông », đây là dòng chữ viết trên áo phông của Michelle, một người biểu tình rất lo ngại cho thành phố này : « Hồng Kông mà chúng tôi biết đang biến mất dưới mắt của tôi. Nguyên tắc ‘Một nước hai chế độ’ chưa bao giờ mang lại những điều được hứa hẹn. Cho nên điều rất quan trọng đối với chúng tôi là đấu tranh vì dân chủ để lấy lại thành phố của chúng tôi ».

Phải bảo vệ quyền tự do ở Hồng Kông, nhưng cũng không quên các quyền tự do của Trung Quốc. Một thanh niên hoạt động công đoàn, phất một lá cờ xanh, giải thích : « Từ ‘dân chủ’ được viết bằng Hoa Ngữ trên đấy. Chúng tôi không có quyền đến Trung Quốc để giúp đỡ công nhân, nhưng chúng tôi biết là công đoàn ở đấy bị đàn áp vì họ đấu tranh bảo vệ quyền của người lao động. »

Không được vượt làn ranh đỏ : Chủ tịch Trung Quốc đã cảnh báo ngay buổi sáng ngày 01/07 ở Hồng Kông : « Tất cả những nỗ lực gây hiểm nguy cho chủ quyền quốc gia để thách thức chính quyền trung ương và luật cơ bản của Hồng Kông » sẽ « dứt khoát không được chấp nhận. »

Trước phát biểu mạnh mẽ này, Hà Tuấn Nhân (Albert Ho), chủ tịch Liên Minh Hồng Kông vì Dân Chủ, đáp trả khôn ngoan : « Chúng tôi là những kẻ yếu. Chúng tôi cảm nhận là mình bị đàn áp, nhưng không đủ sức đáp trả mạnh mẽ. Chúng tôi là những người bình thường. Điều duy nhất chúng tôi có thể làm là nói lên sự bất bình của mình. Chúng tôi sẽ tiếp tục nói lên sự thật với giới có quyền hành. »

Vào buổi sáng, một cuộc biểu tình khác cũng diễn ra nhưng nhỏ hơn, và cũng gặp nhiều khó khăn.

Thông tín viên RFI Florence de Changy cho biết thêm là người biểu tình gần như không quan tâm đến tuyên bố và sinh hoạt của chủ tịch Trung Quốc trong hai ngày tại Hồng Kông cho dù đoàn xe của ông Tập Cận Bình được tiền hô hậu ủng với trực thăng yểm trợ trên không rất ồn ào.

Cyd Ho, nhân vật số hai của đảng Lao Động nhận định : « Chuyến viếng thăm của chủ tịch Trung Quốc là chuyến viếng thăm của một người tìm cách nấp phía sau hàng rào sắt và giả vờ như đang ở trong một thành phố tuyệt vời. Nhưng nếu quan sát kỹ những gì đang diễn ra trên đường phố, bên kia hàng rào sắt với cảnh sát lạm dụng chức năng thì sẽ thấy quyền công dân và tự do bị thu hẹp. Nếu muốn Hồng Kông chói sáng trở lại, chúng ta phải đòi hỏi một nền dân chủ và Nhà nước thượng tôn pháp luật ».

Theo Reuters, để biểu dương uy lực của Trung Quốc, hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc sẽ đón tiếp công chúng Hồng Kông lên thăm khi cập bến cảng vào tuần tới.

Trung Quốc phóng tên lửa vũ trụ thất bại

0
TTO – Rời bệ phóng an toàn, song tên lửa Trường Chinh 5 Y2 đã không thể hoàn thành sứ mệnh. Vụ việc được xem là thất bại tổn thất lớn nhất của chương trình không gian Trung Quốc.

Sự việc xảy ra tại bãi phóng thuộc Trung tâm không gian Văn Xương nằm trên đảo Hải Nam chiều tối ngày 2-7. Tên lửa ban đầu đã rời bệ phóng an toàn, mang theo Shijan-18, vệ tinh viễn thông được chính phủ Trung Quốc tuyên bố là nặng nhất từ trước đến nay, lên không gian.

Tuy nhiên, “một sự cố bất thường đã xảy ra trong quá trình tên lửa bay đi”, hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc Tân Hoa xã cho biết.

Hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân dẫn đến thất bại của lần phóng này. Chương trình không gian của Trung Quốc rất hiếm khi xảy ra trục trặc lớn, mặc dù vậy vẫn còn khoảng cách xa so với Nga và Mỹ xét trên tổng thể.

“Các cuộc điều tra đầy đủ sẽ được tiến hành”, Tân Hoa xã khẳng định. Sứ mệnh lần này của tên lửa đẩy Trường Chinh 5 Y2 là mở đường cho việc lấy mẫu vật trên mặt trăng và quay về trái đất trong năm nay, theo Reuters. Hiện vẫn chưa rõ thất bại lần này có ảnh hưởng đến kế hoạch nói trên hay không.

Trường Chinh 5 Y2 là một trong những tên lửa đẩy mạnh và phức tạp nhất từng được Trung Quốc chế tạo. Họ tên lửa Trường Chinh được dùng để chỉ chung tất cả các loại tên lửa đẩy vệ tinh do Bắc Kinh phát triển.

Năm 2016, Trung Quốc đã sử dụng tên lửa đẩy Trường Chinh và phóng thành công tàu Thần Châu 11 lên không gian. Con tàu mang theo hai phi hành gia đã kết nối thành công với trạm không gian Thiên Cung của Trung Quốc sau đó và được xem là bước tiến vượt bậc của Bắc Kinh trong chương trình không gian của nước này.

BẢO DUY/TUỔI TRẺ

VIẾT VỀ NGƯ DÂN VIỆT NAM

Tuấn Khanh

 

Đêm nay gió lên rồi
Mà đường về xa lắm em ơi
Biển xanh nay nghe tù tội
Phận người theo con sóng trôi.

Chim ơi bay phía chân trời
Gửi lời này đến quê tôi
Quê tôi xa xôi vời vợi
Nước mắt rơi thành lời

Ngửa mặt lên trời
Như xác ngư dân trôi ngoài biển khơi
Trôi theo con sóng vỗ
Trôi theo phận nước tôi

Tiếng thở than nào
Trên áo tang đẫm máu
Có tiếng ai về sau
Hay linh hồn nghẹn ngào?

Đêm nay gió lên rồi
Đời người buồn lắm em ơi
Biết đâu tương lai mà đợi
Từng ngày nhìn con sóng trôi

Ai đang ngóng con thuyền
vật vờ phía khơi xa?
Trôi theo con sóng xô
Trôi theo phận nước tôi

Ngửa mặt lên trời
Như xác ngư dân trôi ngoài biển khơi.
Trôi theo con sóng vỗ
Trôi theo phận nước tôi

Biết về nơi nào
Khi biển xanh nhuốm máu.
Ai mang chung niềm đau
Khi nước Việt nghẹn ngào?

https://www.facebook.com/quyenconnguoi/videos/1315136611874685/

Bộ luật hình sự sai sót nghiêm trọng, ai chịu trách nhiệm?

0
 TTO – Ngày 27-6, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có cuộc họp với trưởng đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, TP để bàn một chuyện hi hữu: hoãn thi hành Bộ luật hình sự (sửa đổi) vì những sai sót nghiêm trọng.
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII (sáng 27-11-2015) họp phiên toàn thể biểu quyết thông qua: Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) – Ảnh: Phương Hoa

Trước đó ngày 27-11-2015, Quốc hội khóa XIII thông qua Bộ luật hình sự (sửa đổi) với đa số phiếu tán thành.

Đây là bộ luật có nhiều điểm mới được dư luận quan tâm, ví dụ như việc bỏ hình phạt tử hình đối với bảy tội danh, quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân…

Tuy vậy chỉ sau khi Quốc hội thông qua ít lâu, có chuyên gia đã phát hiện bộ luật này có ba lỗi nghiêm trọng.

Ngày 20-4-2016, viết trên báo Tuổi Trẻ, ông Đinh Văn Quế – nguyên chánh tòa hình sự TAND tối cao – khẳng định “Bộ luật hình sự không chỉ có ba lỗi nghiêm trọng”. Ông chỉ ra rất nhiều nội dung “có vấn đề” của bộ luật này.

Cuộc họp bất thường

Nguồn tin của Tuổi Trẻ cho biết sau khi có phân tích của giới chuyên gia, dư luận, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã tiến hành rà soát tổng thể bộ luật.

Kết quả cho thấy có tới hơn 90 nội dung cần sửa đổi. “Không thể tin được một bộ luật quan trọng được gần 500 ĐBQH bấm nút thông qua lại mắc phải những sai sót nghiêm trọng như vậy” – vị này nói.

Trước tình hình đó, lãnh đạo Ủy ban Tư pháp gấp rút báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền.

Sau một thời gian cân nhắc, thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập các trưởng đoàn ĐBQH khóa XIII chỉ ba ngày trước khi Bộ luật hình sự có hiệu lực thi hành (ngày 1-7-2016).

Tại cuộc họp diễn ra sáng qua, một quyết định rất hi hữu được đưa ra: các trưởng đoàn ĐBQH sẽ đem theo tài liệu, tờ trình, các báo cáo có liên quan về địa phương triệu tập cuộc họp đoàn ĐBQH (khóa XIII) để thảo luận, cho ý kiến và bỏ phiếu quyết định (về việc Quốc hội ban hành nghị quyết lùi thời hạn thi hành Bộ luật hình sự).

“Các ĐBQH sẽ biểu quyết bằng phiếu tại cuộc họp đoàn, niêm phong phiếu đó lại, trưởng đoàn ĐBQH có trách nhiệm đem số phiếu của đoàn ra Quốc hội, bầu ban kiểm phiếu và tiến hành kiểm phiếu. Lẽ ra phải triệu tập kỳ họp Quốc hội bất thường nhưng không còn thời gian để làm việc này nữa, vì vậy đây là biện pháp khả thi nhất để Quốc hội khóa XIII sửa sai, không để những sai sót trong Bộ luật hình sự ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và doanh nghiệp” – nguồn tin cho hay.

Nếu đa số ĐBQH đồng ý theo phương án được trình, Bộ luật hình sự sẽ có hiệu lực thi hành từ 1-1-2017. Trong thời gian đó, Quốc hội khóa XIV sẽ sửa đổi, bổ sung hơn 90 nội dung phát hiện sai sót.

Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII (sáng 27-11-2015) họp phiên toàn thể biểu quyết thông qua: Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) – Ảnh: Phương Hoa

Ai chịu trách nhiệm?

Đây là lần thứ hai Quốc hội khóa XIII phải tiến hành sửa đổi một đạo luật khi nó còn chưa có hiệu lực thi hành (lần thứ nhất là sửa điều 60 Luật bảo hiểm xã hội). Lỗi lần này nghiêm trọng hơn lần trước rất nhiều.

“Đoàn ĐBQH chúng tôi triệu tập cuộc họp vào ngày 28-6, sau đó biểu quyết ngay, bởi dự kiến ngày 30-6 Quốc hội đã phải ban hành nghị quyết cho lùi thời điểm bộ luật có hiệu lực thi hành. Đây là chuyện rất hi hữu. Bộ luật có quá nhiều lỗi, chắc chắn phải sửa mới thi hành được. Quốc hội có lỗi với dân, lỗi trước hết thuộc về gần 500 đại biểu đã biểu quyết thông qua bộ luật” – trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Nam Định Nguyễn Anh Sơn trao đổi với phóng viên Tuổi Trẻ ngay sau cuộc họp.

Trao đổi qua điện thoại với phóng viên Tuổi Trẻ, nguyên bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết khi còn là bộ trưởng, sau khi nhận được phản ứng từ dư luận như nêu trên, ông đã kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết giải thích một số nội dung, cho đến khi Quốc hội khóa XIV sửa sai.

“Việc quy trách nhiệm chắc chắn là không tránh khỏi. Chúng tôi là những người trình dự án luật, sau đó Ủy ban Tư pháp thẩm tra. Nhiều nội dung có quan điểm khác nhau trong quá trình soạn thảo, nhưng cuối cùng thông qua thuộc thẩm quyền của Quốc hội”.

“Tôi cũng là một đại biểu. Giờ nhìn lại thì thấy rằng một bộ luật lớn như vậy mà làm cập rập quá, cá nhân tôi cũng từng đề nghị phải có thêm thời gian nhưng không được chấp nhận” – ông Cường nói.

Đồng tình với ông Cường, nguồn tin của Tuổi Trẻ tại Ủy ban Tư pháp cũng cho rằng một đạo luật đồ sộ như vậy mà xem xét trong hai kỳ họp thì không có cách nào làm tốt được.

“Hơn nữa, bộ luật lần này phải cụ thể hóa, định hướng rất nhiều quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, nhưng từ khi có báo cáo kết quả lấy ý kiến nhân dân đến khi Quốc hội thông qua chỉ có khoảng một tháng rưỡi”.

“Bây giờ sai thì đã sai rồi, Quốc hội khóa XIII phải dũng cảm nhận sai và kịp thời đưa ra biện pháp xử lý, bởi không thể đưa một đạo luật sai như vậy ra thi hành. Gần 500 đại biểu Quốc hội phải chịu trách nhiệm vì đã bấm nút thông qua, nhưng cũng cần làm rõ trách nhiệm từng khâu cho đến khâu cuối cùng là công bố luật” – vị này phân tích.

Trao đổi với phóng viên Tuổi Trẻ, nhiều ĐBQH cho rằng qua những sự cố như điều 60 Luật bảo hiểm xã hội và Bộ luật hình sự, Quốc hội cần rút ra bài học, làm rõ trách nhiệm và chấm dứt cách làm luật “chạy theo thành tích” như thời gian qua.

Hơn 90 nội dung cần sửa đổi, bổ sung

Nguồn tin của Tuổi Trẻ khẳng định trong báo cáo gửi các ĐBQH khóa XIII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết có tới trên 90 nội dung thuộc Bộ luật hình sự cần phải sửa đổi, bổ sung. Trong số đó, theo các chuyên gia, có những sai sót nghiêm trọng và những sai sót “không thể tin được”.

Nguyên chánh tòa hình sự TAND tối cao Đinh Văn Quế từng nêu các ví dụ cụ thể như: ngoài điều 249, điều 250, điều 252 Bộ luật hình sự 2015 bị trùng lặp tình tiết định khung hình phạt thì còn điều 337 quy định tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước.

Tên của điều luật quy định hai tội với bốn hành vi: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước. Nhưng khoản 1 của điều luật này lại chỉ quy định một tội với một hành vi “cố ý làm lộ hoặc mua bán bí mật nhà nước”, còn ba hành vi: chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước thì không thấy đâu nữa. Nếu nghiên cứu kỹ Bộ luật hình sự 2015, chúng ta còn thấy một số điều luật nếu không có giải thích hoặc hướng dẫn thì không thể áp dụng được.

Ví dụ: điều 175 (điều 140 Bộ luật hình sự 1999) quy định về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đã bỏ tình tiết “bỏ trốn để chiếm đoạt” trước đây quy định tại điểm a khoản 1 điều 140 Bộ luật hình sự. Vậy kể từ ngày 1-7-2016 (nếu bộ luật có hiệu lực thi hành) trở đi cứ vay mượn, thuê tài sản của người khác rồi bỏ trốn để chiếm đoạt thì không phạm tội sao?!

LÊ KIÊN/TUỔI TRẺ

CHUYỆN MẸ NẤM BÂY GIỜ MỚI KỂ

Đôn An Võ

Sau khi bị bắt, Công an nhốt Mẹ Nấm tại trại giam huyện Cam Lâm để điều tra, quá trình điều tra Mẹ Nấm không nhận tội nên bị đối xử bằng cách: cho ăn cơm với 2 món cá Nục và rau Mồng Tơi suốt thời gian dài, không cho mặc quần áo lót và dùng băng vệ sinh trong những ngày đèn đỏ, nhốt Mẹ Nấm chung phòng với một can phạm ma túy. Mẹ Nấm phản đối bằng cách tuyệt thực nhịn đói suốt 15 ngày.

Khi bị bắt, Mẹ Nấm yêu cầu được gặp luật sư bào chữa nhưng phía cơ quan an ninh không cho, họ nói đợi khi nào kết thúc điều tra vụ án thì mới được gặp. Vụ án kéo dài gần 8 tháng nhưng gia đình và luật sư chưa nghe tin tức gì về Mẹ Nấm.

Không hiểu tại sao, sau khi ngài thủ tướng đi thăm Mỹ về thì việc điều tra vụ án kết thúc nhanh chóng và Viện kiểm sát ra cáo trạng truy tố trong thời gian ngắn, làm các luật sư trở tay không kịp.

Trước ngày xử, các luật sư vội vã vào trại giam thăm Mẹ Nấm, Mẹ Nấm nhờ luật sư nhắn gia đình gửi bộ đồ quần tây, áo trắng để mặc ra tòa cho lịch sự. Gia đình Mẹ Nấm 2 lần đến trại giam gửi 2 bộ quần tây áo trắng nhưng trại giam không đưa cho Mẹ Nấm.

Khi ra trước tòa, Mẹ Nấm chỉ được mặc quần vải màu cà rốt xẻ ống và chiếc áo thun màu xám có hình cô gái xì tin. Họ cho Mẹ Nấm mặc bộ đồ này có chủ đích, để người khác nhìn vào đánh giá cô ấy là người chẳng ra sao.

Nghe nói trong chuyến đi Mỹ vừa qua, một nhóm nghị sĩ dân biểu Mỹ đến gặp ngài thủ tướng, yêu cầu Việt Nam thả ngay các tù nhân lương tâm, trong đó đặc biệt quan tâm trường hợp Mẹ Nấm. Ngài thủ tướng hứa sẽ thả Mẹ Nấm trong thời gian sớm nhất, là luật sư bào chữa nghe tin này tôi rất vui mừng.

Không ngờ, tòa tuyên Mẹ Nấm 10 năm tù giam, làm luật sư và nhiều người sốc tức tưởi. Không lẽ, ngài thủ tướng cũng bị cấp dưới “Chơi” giống như ông Nguyễn Đức Chung trong vụ Đồng Tâm hay sao ?

Nguy cơ ảnh hưởng môi trường biển từ bùn thải của Vĩnh Tân 1

RFA

Truyền thông trong nước ngày 28/6 cho biết Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, ông Nguyễn Linh Ngọc đã ký giấy chấp thuận cho một triệu mét khối bùn thải sẽ được nhận chìm xuống vùng biển xã Vĩnh Tân, Huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Đây là số bùn và cát được vét lên từ khu bến tàu đang được chuẩn bị cho việc xây cất nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân số 1. Thông tin này gây lo ngại cho giới nhà khoa học biển và một bộ phận người dân về khả năng ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển của lượng bùn thải này.

Trước khi ký giấy phép, Bộ Tài nguyên- Môi trường đã lấy ý kiến Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận, Bộ Giao thông- Vận tải, Bộ Nông nghiệp- Phát triển Nông thôn, về ảnh hưởng của việc này đến Khu bảo tồn biển Hòn Cau.

Được biết lượng bùn thải này chứa 20% bùn, 80% cát, vỏ sò, cát pha, cát kết phong hóa, sét, bùn trầm tích…và được nhận chìm trên diện tích khoảng 30 hécta mặt nước biển, độ sâu không quá 30 mét.

Xả thải hay nhấn chìm

Giấy phép do Thứ trưởng Môi trường ông Nguyễn Linh Ngọc ký nêu rõ: “Vật, chất được phép nhận chìm phải bảo đảm không chứa chất phóng xạ, chất độc, chất thải nguy hại vượt quy chuẩn an toàn bức xạ, vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường,” có hiệu lực đến ngày 30 Tháng Mười.

Trả lời đài RFA chiều ngày 30/6, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tác An, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật biển Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Hải Dương học Nha Trang nói rằng trong thông báo Bộ Tài nguyên Môi trường chỉ nói là lượng bùn không có độc tính và phóng xạ. Tuy nhiên, điều mà giới khoa học lo ngại không phải là độc tính về mặt hóa học mà là tác động về mặt sinh học. Ông phân tích:

Thải ra một triệu mét khối chất nạo vét như vậy thì phải tưởng tượng là nó sẽ làm đục cả khu vực biển chỗ đó. Mà đã đục lên thì ánh sáng không xuống được. Khi không có ánh sáng quá trình quang hợp không thực hiện được. Như vậy sẽ mất chuỗi thức ăn. Thứ hai, xả xuống đó nó sẽ xáo trộn tầng đáy và ảnh hưởng đến sinh vật đáy – một sinh vật mang tính cơ sở nuôi sống nguồn lợi ở trong nước. Nhưng những điều này tôi không thấy Nhà nước nói tới.

Xả xuống đó nó sẽ xáo trộn tầng đáy và ảnh hưởng đến sinh vật đáy – một sinh vật mang tính cơ sở nuôi sống nguồn lợi ở trong nước. – GS. Nguyễn Tác An

Tiến sĩ Nguyễn Tác An cho biết thông thường sinh vật tầng đáy có mật độ rất dày đặc từ 1 triệu cá thể/m2 có những nơi đến 10-11 triệu cá thể/m2 và có chức năng chuyển hóa năng lượng rất lớn, là cầu trung gian giữa vi sinh vật và động vật đáy cỡ lớn.

Một vấn đề khác được nhà khoa học biển này nêu ra liệu đây có thực sự là “nhận chìm” hay là “xả thải”:

Họ nói là nhận chìm nhưng trong khi thực hiện người ta sẽ sử dụng công nghệ xà lan. Tuy nhiên xà lan không thể dùng để nhận chìm mà là thực hiện công nghệ xả thải mà xả thải thì thế giới người ta không tán thành và không đúng luật. Theo thuật quốc tế, nhận chìm là những chất đó không được phân tán đi nơi khác mà phải cố định ở đó. Thông thường người ta dùng container hoặc gói lại thế nào đó để nhấn xuống nhưng mình lại dùng xà lan để cải nó ra

Quan ngại tác hại lâu dài

Trước phản ứng của giới khoa học và người dân, báo Tuổi Trẻ cho biết đến tối cùng ngày, bộ này cho biết việc nhận chìm chỉ cho phép tiến hành từng bước với sự quan trắc, giám sát chặt chẽ phẩm chất môi trường biển trong suốt quá trình thực hiện. Bộ này cũng khẳng định, dừng nhận chìm bùn thải nếu chỉ số nước biển vượt quy định. Tuy nhiên Tiến sĩ Nguyễn Tác An nói rằng Bộ cần giải thích rõ sẽ giám sát như thế nào và giải quyết ra sao. Ông nói thêm rằng việc “giảm thiểu tác động môi trường” khi phát triển kinh tế chính là nằm ở khâu giám sát này.

Đồng tình với quan điểm của tiến sĩ Nguyễn Tác An về tác động của lượng bùn này đến hệ sinh vật đáy và gây vẩn đục mất cảnh quan, Giáo sư Lê Huy Bá, nguyên trưởng Viện Khoa học – Công nghệ và Quản lý Môi trường, Đại học Công Nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh bổ sung thêm rằng các rặng san hô ở khu Bảo tồn biển Hòn Cau cũng sẽ là nạn nhân:

Trước đó đáng lẽ phải có khảo sát tầng đáy biển có san hô hay không. Nếu có san hô mà đổ cả trầm tích nên san hô thì “tiêu” luôn! Tôi không được quan sát số liệu, hình ảnh cụ thể nên khó nói nhưng  tôi phỏng đoán là có san hô.

Theo tìm hiểu của chúng tôi,  khu bảo tồn biển Hòn Cau có diện tích 12.500 ha là nơi có quần thể san hô nguyên thủy dài hơn 2 km với gần 234 loại san hô và là bãi đẻ của nhiều loài tôm, cá, rùa biển, đồi mồi,… Ngoài ra, vùng biển xung quanh đảo Hòn Cau có sự hiện diện của trên 34 loài thủy sinh vật quý hiếm nằm trong danh mục có nguy cơ tuyệt chủng.

Báo cáo của Bộ Tài nguyên Môi trường nói rằng các chất bùn thải này không chứa độc tính tuy nhiên Giáo sư Lê Huy Bá nói khi chúng có thể kết hợp với các chất trong nước biển và trở thành chất độc:

Khi ở điều kiện yếm khí ở tầng đáy lại khác nhưng khi đổ xuống biển môi trường khác lại có tác động của các cation trong nước biển có thể trở thành chất đọc trong khi trước đó không hề độc. – GS. Lê Huy Bá

Khi ở điều kiện yếm khí ở tầng đáy lại khác nhưng khi đổ xuống biển môi trường khác lại có tác động của các cation trong nước biển có thể trở thành chất đọc trong khi trước đó không hề độc.

Tiến sĩ Nguyễn Tác An cho biết có rất nhiều cách khác để tận dụng nguồn bùn thải này như một nguồn tài nguyên vì đây là bùn và cát được nói là không độc. Tuy nhiên điều này đòi hỏi chi phí đầu tư cao mà theo ông những doanh nghiệp không tính toán lâu dài sẽ không làm, mà chọn cách đổ luôn xuống biển dẫu có thiệt hại thì cả xã hội gánh vác.

Đầu tháng 11 năm ngoái, công ty Điện lực Vĩnh Tân 1 xin phép cơ quan chức năng “nhận chìm” hơn 1,5 triệu m3 chất thải xuống biển. Lượng chất thải này gồm bùn, đất, cát trong quá trình nạo vét. Lúc bấy giờ báo trong nước dẫn lời Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói rằng quan điểm của ông là không thể đổ chất thải xuống biển. Sau đó Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận cũng lên tiếng cho rằng nếu cho phép một công ty nhiệt điện ở tỉnh đổ chất thải xuống biển, việc này sẽ ảnh hưởng đến môi trường.

Báo chí Việt Nam mô tả dự án Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 “gần như do các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư.” Theo thông cáo của chủ đầu tư thì chỉ khoảng 5% vốn đầu tư của Việt Nam còn lại đến 95% là vốn Trung Quốc.

Cũng cần nói lại là nhà máy điện Vĩnh Tân số 1 nằm trong loạt bốn nhà máy điện Vĩnh Tân 1 đến 4 chạy bằng than, gây nhiều lo ngại từ công luận là sẽ gây ô nhiễm môi trường.