VŨ THƯ HIÊN
Thế là Nguyễn Minh Cần đã đi xa.
Đành rằng đã 88 tuổi trời, ông có chia tay với chúng ta âu cũng là lẽ thường. Nhưng mới hôm nào còn được nghe tiếng ông sang sảng bên kia đầu dây, mà hôm nay không còn có thể trò chuyện với ông nữa, thì tin ông mất vẫn cứ làm tôi choáng váng, như thể tin không thực.
Cảm giác của con người là vậy – chúng ta quen thấy mọi vật như một cái gì đó vĩnh hằng, cho đến khi không thấy nữa mới biết là nó không còn.
Cuộc đời Nguyễn Minh Cần gắn liền với lịch sử Việt Nam cận đại. Dõi theo những khúc quanh của cuộc đời ông bằng con mắt chăm chú ta có thể thấy những bước dịch chuyển của tư duy hướng Thiện của những người như ông trong bối cảnh cái Ác lộng hành.
Nguyễn Minh Cần tham gia cuộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc rất sớm. Trong phong trào này ông trở thành đảng viên cộng sản cũng rất sớm. Năm 18 tuổi ông đã được bầu làm uỷ viên thường vụ thành uỷ thành phố Huế. Năm 25 tuổi đã là uỷ viên thường vụ thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch thành phố. Những người được đảng cộng sản tín nhiệm như ông không phải hãn hữu, nhưng cũng không nhiều. Nói tóm lại, Nguyễn Minh Cần được đảng đánh giá cao, được đặt vào hàng những đảng viên ưu tú. Để bồi dưỡng cho hàng ngũ kế cận, năm 1962 ông được cử đi sang Liên Xô (cũ) học tại Trường đảng cao cấp ở Moskva. Đảng không tin tưởng Nguyễn Minh Cần còn tin tưởng ai.
Thế mà đùng một cái, người đảng viên ưu tú ấy, cùng với một số đảng viên cũng ưu tú không kém, vào một ngày đẹp trời bỗng trở thành “phản động”. Cứ thông đồng bén giọt, trên chính trựờng Việt Nam ắt ta gặp một Nguyễn Minh Cần ở tầng cao nhất trong hệ thống cai trị, chứ không phải Nguyễn Minh Cần mà ta biết. Không biết đảng có ngạc nhiên với sự thay đổi đột ngột trong người đảng viên ưu tú của mình không, chứ dân thường ngạc nhiên lắm. Từ ngạc nhiên đến tò mò, từ tò mò đến tìm hiểu là những bước ngắn. Tìm hiểu rồi người ta mới ngộ ra rằng có những đảng viên cộng sản không coi đảng là totem. Khốn nạn, thay vì phải sùng bái đảng, coi đảng là lý tưởng, theo đảng như tín đồ, họ lại coi đảng không hơn bộ quần áo – cần thì mặc, thấy nó chật, nó rách, thì vứt.
Số là vào thời gian này (đầu thập niên 60) Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), đứng đầu là tân vương Lê Duẩn và tà lọt Lê Đức Thọ, cúc cung theo đường lối Mao Trạch Đông đã phóng tay phát động cuộc chiến tranh không tuyên bố gọi là “giải phóng miền Nam”. Người không chăm chú theo dõi những bước đi của đảng cộng sản thường tưởng nhầm Lê Duẩn là người chống Trung Quốc. Họ không hề biết Lê Duẩn từng coi Mao Trạch Đông là sư phụ, nhất nhất nghe theo những huấn thị của sư phụ từ hành dinh Trung Nam Hải. Chuyện Lê Duẩn trở thành kẻ chống Trung Quốc là chuyện về sau, vì những nguyên cớ rất đời thường.
Những người sau này bị gọi là “phản động” ở trong nước cũng như những người được đảng cử đi học chủ nghĩa Mác ở Liên Xô, thoạt đầu bày tỏ với đảng của họ sự không đồng tình với đường lối theo đuôi Trung Quốc bằng cách rất nhẹ nhàng. Bằng những kiến nghị, thư gửi đầy từ ngữ lịch sự, họ lễ phép viện dẫn nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 3 năm 1960 nhấn mạnh chủ trương “hoà bình thống nhất đất nước”, những mong đảng xem xét lại sự tiến hành “chiến tranh nhân dân ở miền Nam” (về thực chất là dùng bạo lực “giải phóng miền Nam), chẳng những gây ra tai hoạ huynh đệ tương tàn, mà còn phá nát những gì đã xây dựng được ở miền Bắc. Đồng thời, họ cũng hiền lành “xin” đảng mở rộng dân chủ trong đảng cũng như trong toàn bộ xã hội. Không có thể nói là với những phát biểu ôn hoà như thế là hành động chống đảng.
Nhưng cặp bài trùng Duẩn-Thọ, với tư duy độc tài từ trong máu, không chịu được những phát biểu chứng tỏ sự không ngoan ngoãn của họ đã nổi sùng, ra lệnh tống giam vô thời hạn và không cần xét xử đám “phản động” trong nước trong cái gọi là “Vụ án tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” , nói ngắn là “vụ xét lại chống đảng”. Với những kẻ hỗn láo đang ngoài nước mà tay đảng không với tới để tống vào tù thì đảng không biết phải xử trí thế nào.
Trong khi đảng còn vắt tay lên trán ủ mưu, thì những kẻ hỗn láo nọ đã thẳng thừng tuyên bố ly khai đảng.
Nguyễn Minh Cần là một trong số tên ly khai ấy.
Bộ quần áo cộng sản chật rồi, rách rồi, thì Nguyễn Minh Cần quẳng đi. Chỗ thích hợp cho nó, là thùng rác lịch sử.
Trong diễn biến tư duy của Nguyễn Minh Cần hiện diện một nghịch lý. Không phải do một tác nhân nào khác, mà chính là những giảng viên Liên Xô của ông đã chỉ cho ông thấy những cái lỗi thời, những yếu tố phản nhân tính trong lý thuyết mác-xít.
Ở điểm này hai chúng tôi may mắn – cũng như ông, tôi được mấy giảng viên triết học và văn học đã âm thầm chỉ cho tôi những cuốn sách nên đọc, để rồi đọc xong tôi mới vỡ lẽ ra rằng những giáo điều trước đây mình bị nhồi nhét vào đầu toàn là của giả.
Tôi trở thành phản động là do chính những người cộng sản.
Bộ máy mật thám của đảng đã làm việc rất tốt. Tôi ở trong nước thì vào tù. Nguyễn Minh Cần chọn cuộc sống lưu vong.
Năm 1992 chúng tôi gặp lại nhau. Nó là lần gặp lại của hai người trước sơ, nay đã thành thân – chúng tôi giờ có chung một con đường.
Ngày trước tôi chỉ biết một Nguyễn Minh Cần, thường vụ thành uỷ, phó chủ tịch thành phố Hà Nội, phụ trách mảng nông thôn, và cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp báo (xin giải nghĩa một chút: họp báo ở đây không có nghĩa thông thường được hiểu, mà là cuộc họp để dạy cho các cơ quan truyền thông biết cách giải thích chủ trương chính sách của đảng).
Khi ấy Nguyễn Minh Cần là quan, tôi là dân. Chúng tôi có vài cuộc trò chuyện bên lề, là hết. Sơ là sơ thế thôi, có biết nhau, nhưng không phải, không hề là bạn.
Giờ đây, chúng tôi có nhiều chuyện để hàn huyên – nhiều nhất là những chuyện thâm cung bí sử mà trước đây mỗi người chỉ được biết một mảng, biết mà không nói ra, không dám nói ra, vì… bộ quần áo đang mặc. Nay vứt nó đi rồi, chúng tôi bàn luận thoải mái. Chẳng hạn như chuyện cái chết thương tâm của bà hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn… Ái Quốc. Ông có viết về chuyện này khá tỉ mỉ. Bạn nào tò mò có thể tìm hiểu trên mạng internet, chẳng hạn trong web này: (http://www.conongviet.com/…/webfeb1710-nguyenminhcan…)
Cùng sống ở Moskva, chúng tôi gặp nhau thường. Từ những chuyện trò tâm sự tôi hiểu ông: Nguyễn Minh Cần đã tìm được con đường đúng cho mình nhờ lý trí thì ít mà nhờ trái tim thì nhiều.
Trong công việc, được tiếp xúc với nhiều người thuộc mọi tầng lớp xã hội, ông thấy những chính sách của đảng không hợp lòng dân, không nhằm vào lợi ích cho dân. Chúng chỉ nhằm củng cố quyền cai trị độc tôn của đảng.
Át giọng thực tế mà ông thấy, những giáo điều trong ông cãi chầy cãi cối, nhưng ngày càng đuối lý. Nguyễn Minh Cần tỉnh dần.
Bước ngoặt đến, đảng không thuyết phục được ông thì đảng bắt ép ông phải tuân theo. Ông không còn lựa chọn nào khác là vạch trần những sai trái của đảng, rồi đến lúc phải đến, Nguyễn Minh Cần tuyên bố ly khai nó.
Cuộc sống lưu vong, lại ở Liên Xô, một nước vẫn là cộng sản, không hề dễ dàng. Nhất là đối với những người không chỉ ly khai đảng của họ, mà còn ly khai cả lý thuyết mác-xít mà Đảng cộng sản Liên Xô vẫn còn coi là kinh thánh.
Liên Xô chỉ cho nhóm đảng viên cộng sản Việt Nam ly khai được tị nạn chính trị trong bối cảnh giữa hai đảng có những bất đồng. Một khi những bất đồng được dàn xếp xong thì hiểm hoạ bị trục xuất về Việt Nam vẫn là thanh gươm Damocles lủng lẳng trên đầu Nguyễn Minh Cần và những người bạn ông. Chuyện này dài, nhiều chi tiết đau lòng, không biết Nguyễn Minh Cần có ghi lại đâu đó không?
Một người bạn tôi, thượng tá Văn Doãn, tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, rất hiền lành, rất tốt bụng, đến nỗi ông được bạn bè tặng cho biệt danh “Doãn Bụt”, một trong những người tị nạn ở Liên Xô thời gian ấy, không chịu nổi sức ép tâm lý nặng nề của cuộc sống lưu vong đã nhảy lầu tự sát.
Khi trở lại Liên Xô sau ba mươi năm xa cách, tôi tưởng sẽ được gặp lại bạn mình, nhưng Doãn Bụt đã không còn. Nguyễn Minh Cần đưa tôi đi viếng mộ – một cái ngăn trong đó có đặt bình tro cốt một số phận bất hạnh. Tôi buồn. Tôi không nghĩ Văn Doãn lại chọn cách tự sát khi niềm tin tan vỡ.
Một người khác – đại tá Lê Vinh Quốc, nguyên chính uỷ sư đoàn thép 308, thì đã lẳng lặng bỏ đi Uzbekistan, làm giảng viên văn học phương Đông ở một trường đại học tại thủ đô Tashkent. Tôi không có dịp đi Taskent. Nó quá xa Moskva.
Tất cả những chuyện đó đã trở thành quá khứ sau sự sụp đổ của cường quốc cộng sản lớn nhất hành tinh năm 1991.
“Tôi nhẹ cả mình”, Nguyễn Minh Cần nói. Cái chính quyền mới của Eltsyn không ra ngô chẳng ra khoai, nhưng bóng ma cộng sản không còn đè nặng tâm trí ông.
Trong những bạn “phản động”, tôi thân với Nguyễn Minh Cần. Vì thân, tôi với ông cãi nhau nhiều hơn bất cứ với bạn nào khác. Những cuộc cãi vã như thế có thể đặt trong một nghịch lý – to tiếng và đáng yêu.
Năm 1993, ông lập “Phật giáo Thảo đường” đầu tiên ở Moskva. “Ở mọi nước cộng sản ta đều thấy hiện tượng xã hội xuống cấp, suy đồi – ông tâm sự – Nguyên nhân là mọi con đường dẫn tới cái Thiện tâm linh đã bị huỷ hoại tận gốc. Mọi xã hội cộng sản cộng sản rồi sẽ tiêu vong, điều đó tất yếu, nhưng cái còn lại sau sự sụp đổ của nó mới là cái đáng sợ hơn hết – sự trống vắng niềm tin. Phật giáo là một minh triết tâm linh, không phải một tôn giáo, nó chính là phương thuốc tốt cho một xã hội tan nát”.
Để lập cái “Phật giáo Thảo đường” nhỏ bé, chỉ là một căn hộ bình thường, đủ chỗ cho một số không nhiều những tín hữu đầu tiên đến tu tập, ông không có một xu dính túi. Tôi đưa ông một số tiền nhỏ. Ông nói là ông vay và ông sẽ trả. Quả nhiên, năm sau ông đem trả tôi số tiền tôi ủng hộ, nói thế nào ông cũng không chịu. “Khi tôi trả được, có nghĩa là “Phật giáo Thảo đường” đã hoạt động, đã có sự đóng góp của các tín hữu đồng đạo. Ông mừng cho chúng tôi đi”.
Tôi mừng, như tôi bao giờ cũng mừng được nhìn thấy kết quả mọi hoạt động hướng thiện, chống ác trên con đường phục hồi một xã hội trong đó nhân phẩm được tôn vinh.
Tôi đã đến thắp hương ở “Phật giáo Thảo đường”. Ngồi bên tôi là Inna, bạn đời của ông. Bà không chỉ là một Phật tử, mà còn là nhà Phật học uyên bác.
Nghe nói bây giờ ở Moskva Thảo đường đã trở thành một ngôi chùa nhỏ. Tôi là người yêu triết học Phật, giáo huấn Phật, nhưng không phải Phật tử. Những nghi lễ chùa chiền xa lạ với tôi.
Mỗi con người đi xa (tôi không muốn, tôi buồn khi phải đặt bút viết chữ “mất”) bao giờ cũng để lại trong tôi một ấn tượng khó quên.
Ấn tượng về Nguyễn Minh Cần là hình ảnh một con người trong sáng. Có được lương tâm trong sáng ấy là do ông có một trái tim rất Thiện.
Chả thế mà ông chọn cho mình pháp danh Thiện Mẫn.
2016